Chương 2 - Người Trả Nợ Hoành Thánh

Để chiều lòng sở thích của họ, ta mời thợ tới sơn lại tường, tỉ mỉ chạm khắc hoa văn trên mái hiên và mặt bàn.

Văn nhân vốn thích hoa cỏ thanh nhã, ta chọn mấy chậu trúc xanh chuyển cả vào trong tiệm.

Bày biện xong xuôi, cửa tiệm nhìn qua cũng mang vài phần phong nhã.

Ta làm một tấm biển gỗ, đề ba chữ “Tống Châu Hoành Thánh”, treo trước cửa.

Từ khi tấm biển được treo lên, “Tống cô nương” trong lời đồn cũng dần hóa thành “Tống Châu”.

Hai tháng sau, vào đêm trước ngày khai trương Tống Châu Hoành Thánh, ta lại gặp Tạ Tri Học một lần nữa.

Khi ấy, hắn đã thành thân với tiểu thư út nhà Trần các lão, và đang giữ chức Viên ngoại lang của Bộ Hộ.

Xe ngựa dừng lại trước cửa tiệm ta, Tạ Tri Học là người đầu tiên bước xuống.

Ngay sau đó, hắn giơ tay lên, cẩn thận đỡ phu nhân của mình xuống xe.

Khu Nam thành vốn toàn dân buôn bán bình dân, loại xe ngựa sang trọng thế này hiếm thấy vô cùng.

Người qua kẻ lại trên phố đều tò mò nghển cổ nhìn về phía này.

Lúc ấy, ta đang chỉ huy thợ mộc dọn dẹp bàn ghế, chợt thấy có gì đó là lạ, bèn bước ra ngoài xem thử.

Vừa trông thấy ta, vợ chồng Tạ Tri Học liền đồng loạt cúi người hành lễ.

“Ấy dà! Đây là làm gì vậy? Mau đứng dậy, mau đứng dậy nào!”

Ta hoảng hốt chạy tới, định đưa tay đỡ họ dậy.

Nhưng hai người vẫn kiên quyết không đứng lên.

Phu nhân họ Tạ nắm lấy tay ta, ngẩng đầu lên, dịu dàng nói:

“Phu quân ta khi mới vào kinh, từng được Tống cô nương chăm sóc tận tình. Nay phu quân đỗ đạt, công danh hanh thông, vợ chồng ta thật chẳng biết lấy gì để báo đáp đại ân này.”

Ta đỏ mặt nói:

“Chỉ là mấy bát hoành thánh thôi mà, đâu đáng để nhắc đến…”

“Một giọt nước ân tình, phải lấy suối nguồn mà đáp.” Phu nhân họ Tạ quả quyết nói, không chút do dự.

Lần này hai người đến không chỉ mang theo quà cáp, mà còn đưa ra cả một tờ khế đất.

Miếng đất đó nằm ngay cạnh tiệm hoành thánh của ta.

Chỗ ấy vốn là một tửu lâu, chỉ tiếc làm ăn không thuận, chủ quán đã dọn cả nhà về Tây Bắc.

Phu nhân Tạ đưa khế đất đến trước mặt ta, ta lập tức xua tay từ chối:

“Thứ này quá quý giá, ta không thể nhận. Tiền hoành thánh của trạng nguyên lang cũng đã trả rồi.”

Hai bên đùn đẩy mấy lượt, thấy ta thật lòng không muốn nhận, phu nhân họ Tạ mới dịu lại.

Bà chuyển sang đề nghị khác — dùng mảnh đất ấy để xây một khách điếm.

Khách điếm ngày thường vẫn buôn bán như thường,

nhưng cứ đến kỳ xuân vi, sẽ mở cửa miễn phí, đón các sĩ tử đến kinh ứng thí vào ở.

Đây đúng là việc tốt lợi ích cho sĩ tử thiên hạ, ta liên tục gật đầu tán thưởng.

5

Sau khi tiệm Tống Châu Hoành Thánh hoàn thiện, khách điếm bên cạnh cũng bắt đầu sửa sang.

Cùng lúc ấy, danh tiếng của ta và Tạ Tri Học càng lúc càng lan xa, thậm chí đã truyền ra khỏi kinh thành.

Ai ai cũng nói, trạng nguyên lang Tạ Tri Học biết ơn biết nghĩa, còn cô nương bán hoành thánh Tống Châu lại chẳng màng danh lợi, không lợi dụng để báo ân.

Cả hai đều là người có lòng với dân, nghĩ cho thiên hạ, thật đáng khâm phục.

Nhờ có câu chuyện đó, việc buôn bán ở Tống Châu Hoành Thánh ngày càng phát đạt.

Một mình ta làm không xuể, đành phải thuê thêm mấy người làm công.

Trong số đó có một thiếu niên tên là Phúc Quý, tầm mười bốn mười lăm tuổi, lanh lợi hoạt bát.

Lúc tới xin việc, ta thấy thằng bé ăn mặc không giống dân nghèo, bèn hỏi vì sao lại muốn làm ở quán hoành thánh của ta.

Phúc Quý hậm hực đáp:

“…Cha ta hỏi ta một quả trứng giá bao nhiêu. Ta trả lời sai, ông liền đuổi ta ra khỏi nhà, bảo bao giờ biết rõ giá cả đồ ăn hằng ngày thì mới được về thừa kế gia nghiệp.”

Nghe xong, ta phì cười:

“Vậy con nghĩ một quả trứng giá bao nhiêu?”

Phúc Quý chần chừ một lúc, rồi đáp nhỏ:

“…Mười lượng?”

Ta thở dài một hơi, rồi từ trong bếp lấy ra hai quả trứng trà.

“Hai quả trứng trà này, quán ta bán một văn tiền một quả.”

“Trứng gà mua về còn rẻ hơn, thường thì bảy quả chỉ năm văn.”

“Còn mười lượng bạc mà con vừa nói… đủ để một gia đình khá giả ở Nam thành sống cả năm đấy.”

Phúc Quý cúi đầu im lặng.

Tuy y phục trên người nó trông đơn giản, nhưng nếu nhìn kỹ thì từ đường cắt, đường thêu cho đến chất vải đều tinh xảo vô cùng.

So với tiểu nhị trong quán, nó giống một thiếu gia nhà quyền quý trốn nhà đi chơi hơn.

“Nếu con thật sự muốn ở lại đây làm việc, quán ta có đồng phục cho người làm.” Ta nói, “Bộ con đang mặc không dùng được đâu, ta sợ khách thấy rồi chẳng dám bước vào.”

Nghe ta nói vậy, Phúc Quý ngẩng phắt đầu lên, mắt sáng rỡ như vừa được ban thưởng lớn.

“Xin chưởng quầy yên tâm!” Nó lớn tiếng nói, “Con nhất định sẽ làm việc thật chăm chỉ!”

6

Tuy Phúc Quý chưa từng làm việc tay chân bao giờ, nhưng đầu óc nhanh nhạy, tính tình hoạt bát, chẳng mấy chốc đã hòa nhập với mọi người trong quán.

Chỉ mới nửa tháng, mà mỗi khi nó đứng ở cửa tiệm, khí chất thiếu gia quyền quý ngày nào đã biến mất sạch, trông chẳng khác gì tiểu nhị lăn lộn chốn phố chợ nhiều năm.

Chữ nó viết đẹp, còn đề cho tiệm một tấm biển mới.

Lại thêm mấy bức thư họa điểm xuyết, quán Tống Châu Hoành Thánh nhỏ bé thoáng cái liền mang thêm mấy phần thanh nhã.

Vài tháng sau, khách điếm bên cạnh cũng xây xong.

Tạ Tri Học đặt tên là Kim Bảng Lâu, mang ý nghĩa mong các sĩ tử tá túc nơi đây đều có thể “kim bảng đề danh”.

Nhờ gắn với danh tiếng của Trạng nguyên lang Tạ Tri Học, ngày khai trương Kim Bảng Lâu, không ít người vừa vào kinh đã lập tức tới Nam thành tìm chỗ trọ.

Khách điếm không phục vụ cơm nước, khách ở xong tất nhiên kéo sang Tống Châu Hoành Thánh ăn một bát hoành thánh cho ấm bụng.

Vừa ăn vừa trò chuyện, câu chuyện Tạ Tri Học biết ơn báo đáp lại được nhắc đi nhắc lại một lần nữa.

Phúc Quý nghe xong, mặt mày đầy vẻ khinh thường.

Đợi tiệm đóng cửa, nó bắt đầu càu nhàu với ta:

“Một kẻ phàm tục chỉ biết chuộng danh chuộng tiếng thôi mà!”

“Cái cách làm này chắc chắn là do cha vợ hắn bày ra!”

“Tạ Tri Học trong triều chẳng có gốc rễ gì, cưới tiểu thư nhà họ Trần chẳng khác nào đi làm rể!”

“Lão cáo già đó chỉ mong giúp con rể trải sẵn con đường mà thôi!”

Nói xong một tràng, Phúc Quý quay sang nhìn ta, ánh mắt đầy vẻ tức tối như thể ta không chịu hiểu chuyện:

“Còn cô nữa đó, Tống Châu! Người ta lợi dụng cô bày ra đủ trò tâm cơ như vậy, mà cô lại chẳng có phản ứng gì hết!”

Tay đang tính sổ của ta dừng lại.

“Họ lợi dụng ta chỗ nào?” Ta ngẩng đầu nhìn nó.

“Lợi dụng cô để mưu cầu danh tiếng tốt chứ còn gì nữa!” Phúc Quý lớn tiếng, “Còn mượn chuyện sĩ tử thi cử, rêu rao khắp thiên hạ cái gọi là lòng tốt nhà họ Trần!”

Ta bật cười:

“Bạc họ đưa ta là thật. Khách điếm cũng sửa rồi, dùng cho sĩ tử ở miễn phí cũng là thật. Sao lại gọi là lợi dụng?”

“Họ thật sự đã làm điều tốt, vậy thì danh tiếng tốt kia, cũng là điều họ xứng đáng nhận được.”

“Nhưng mà—” Phúc Quý còn định cãi tiếp.

Ta giơ tay, đưa ngón tay ra chọc nhẹ vào trán nó một cái:

“Xét việc chứ không xét lòng. Người ta đã làm việc tốt đến nơi đến chốn, con còn muốn gì nữa?”

“Làm việc thiện thì nên làm một cách thuần túy, không nên mong cầu báo đáp!” Phúc Quý cãi lại.

“Thế thì chỉ có thánh nhân mới làm nổi thôi.” Ta nhún vai.

“Dưới gầm trời này, làm gì có nhiều thánh nhân như vậy?”

Phúc Quý lại rơi vào im lặng.

Hôm sau, ánh mắt nó nhìn về phía Kim Bảng Lâu dần phức tạp hơn, nhưng trong đó đã không còn vẻ khinh thường như trước nữa.

7

Lại hai năm trôi qua ta đã hai mươi hai tuổi.

Chớp mắt một cái, Phúc Quý đã làm việc ở tiệm ta suốt hai năm rưỡi.

Hai năm rưỡi ấy, thân hình nó cao lên vùn vụt,

bộ đồng phục mới may hồi đầu năm, đến cuối năm đã không còn mặc vừa.

Nghe nói nhà nó có chuyện gì đó, dạo gần đây tới tiệm làm cũng thưa dần.

Ta dò hỏi mấy lần, nhưng lần nào cũng bị nó lảng đi, nên cũng không gặng hỏi thêm nữa.

Chỉ là đến cuối năm, tiền công ta phát cho Phúc Quý còn dày hơn năm ngoái gấp đôi.

Nó cầm lên, cân thử trọng lượng, cảm thấy có gì đó không đúng.

Cuối năm rồi, nhiều người làm thuê cũng phải về quê ăn Tết.

Để tiễn mọi người, tối hôm ấy ta đích thân xuống bếp làm mấy món, lại lấy ra rượu ngon nhất trong tiệm, bày một bàn linh đình, rộn ràng náo nhiệt.

Ba năm đã trôi qua cây nhỏ trong sân hình như cũng cứng cáp hơn nhiều.

Gió bắc rít qua thổi bay lớp tuyết dày đọng trên cành cây.

Rượu vào ba lượt, ai nấy đều lơ mơ ngà ngà.

Phúc Quý kéo kéo tay áo ta, len lén hỏi có phải ta phát nhầm tiền công rồi không.

“Không nhầm đâu,” ta mỉm cười đáp, “cứ yên tâm, lo mà xử lý chuyện nhà cho tốt.”

“Con chỉ cần nhớ một điều — nếu nhà có biến cố, quay về quán hoành thánh của ta làm tiểu nhị cũng chẳng có gì là không ổn cả.”

Trước đây quán ta từng có một cặp vợ chồng làm thuê, quê nhà gặp tai họa, khóc lóc đến từ biệt.

Khi đó ta cũng phát thêm cho họ một tháng lương, rồi dặn rằng nếu thật sự không còn nơi nào để đi, bất cứ lúc nào cũng có thể quay lại.

Quán hoành thánh làm ăn ngày càng khấm khá, nuôi thêm vài người làm cũng không phải chuyện khó.

Phúc Quý nghe xong vừa buồn cười vừa cảm động:

“Sao mà đến mức ấy được chứ.”

Thiếu niên mười bảy tuổi, tuy nét mặt vẫn còn phảng phất vẻ non nớt, nhưng cách cư xử thì ngày một chững chạc, điềm đạm hơn.

Nó xin nghỉ mấy tháng, nói cha bệnh nặng, cần về nhà phụng dưỡng.

8

Năm mới vừa qua lại đến tháng Hai mùa xuân vi.

Khác với mọi năm, năm nay thánh thượng lâm trọng bệnh, kỳ thi xuân do thái tử đích thân chủ trì.

Thánh thượng vốn yêu thương chính thất, thái tử là trưởng tử do trung cung sinh ra, thân phận cao quý.

Chỉ tiếc rằng hoàng hậu mất sớm, thế lực nhà mẹ đẻ của thái tử suy yếu dần.

Còn Lưu quý phi thì xuất thân từ thế gia vọng tộc, lại sinh liền mấy hoàng tử, trong lòng đã sớm dòm ngó long ỷ.

Trước kia ngoài phố cũng từng rộ lên lời đồn rằng thánh thượng vô cùng coi trọng Nhị hoàng tử, muốn phế thái tử lập lại người khác.

Nhưng nay, chính hoàng thượng lại giao cho thái tử chủ trì kỳ xuân vi — vậy thì đủ thấy những lời kia chỉ là chuyện nhảm nhí.

Mấy chuyện long tranh hổ đấu trong triều, kỳ thực chẳng liên quan gì đến dân thường.

Xuân vi sắp tới, sĩ tử khắp thiên hạ lại nườm nượp đổ về kinh thành.

Chỉ có điều, năm nay có một chuyện lạ — sĩ tử có tiền cũng không vội thuê phòng ở hội quán Đông thành, Tây thành, mà cứ nhất quyết phải tới Kim Bảng Lâu trước.

Chỉ tiếc rằng, càng có tiền, thì càng khó vào được Kim Bảng Lâu.

“Công tử xin mời quay về, viên trân châu trên mũ của ngài giá trị hơn cả ngàn vàng, tiểu điếm thật không dám tiếp.”

“Công tử xin quay về.”

“Công tử…”

Trong suốt kỳ xuân vi, Kim Bảng Lâu chỉ tiếp đón sĩ tử nghèo vào kinh ứng thí, còn phải kiểm tra thân phận, hoàn cảnh thực sự.

Chỉ trong một ngày, chưởng quầy Kim Bảng Lâu đã phải liên tục khước từ không biết bao nhiêu người mang dáng vẻ giàu sang, miệng nói khô cả cổ.

Dù đã từ chối phần lớn, nhưng vẫn không đủ chỗ.

Một Kim Bảng Lâu nhỏ bé, không thể chứa hết sĩ tử nghèo khắp thiên hạ, càng không thể che chở hết những người cùng khổ trên đời này.

Nhà thúc Lý vốn có phong thủy tốt, ba năm trước từng có sĩ tử trọ ở đó đỗ trạng nguyên, đã sớm bị nhà phú hộ bỏ tiền ra mua đứt, để dành riêng cho con cháu mình học hành, ôn luyện.

Nhưng ngoài nhà họ Lý, vẫn còn nhiều chỗ khác.

Nhà thúc Triệu, bà vú Kỳ, hay đại nương họ Tiền ở quanh khu Nam thành — tất cả đều có phòng trọ giá rẻ, chen chúc đầy sĩ tử vào kinh thi cử.

Vẫn là những căn phòng tăm tối, chiếu chăn hôi mốc.

Chỉ cần mười văn tiền, là có thể ngủ lại một đêm.

Sáng hôm sau, Tống Châu Hoành Thánh vừa mở cửa, hương thơm liền bay xa cả mười dặm.

Góc phố quen thuộc, lại có mấy bóng người rụt rè đứng nép, nghển cổ nhìn về phía tiệm.

Ta thở dài, giống như ba năm trước, giơ tay vẫy họ lại:

“Lại đây đi, chỗ ta có thể ghi nợ.”

9

Sau kỳ hội thí, kinh thành bỗng xảy ra một trận binh biến không lớn nhưng cũng chẳng nhỏ.

Đêm thánh thượng băng hà, có kẻ dám dẫn binh đột nhập vào cung lúc nửa đêm.

Hoàng cung rối loạn, kinh thành cũng vì thế mà chẳng được yên ổn.

Có đạo tặc thừa lúc hỗn loạn kéo vào kinh, chuyên cướp bóc nhà giàu.

Chỉ là, Đông thành Tây thành toàn quan lại quyền quý, nhà nào cũng có đầy người hầu kẻ hạ, canh phòng cẩn mật.

Bọn cướp liều mạng cả đêm mà chẳng phá nổi mấy cánh cổng.

Mấy tên đầu óc nhanh nhạy lập tức đổi hướng —

lao thẳng về phía Nam thành.

Dân Nam thành thế cô lực yếu, một nhà bốn năm miệng ăn, chỉ một nhát dao là mất mạng.

Tuy người thường chẳng có bao nhiêu bạc trong tay, nhưng với đám cướp, có còn hơn không, đâu thể để công toi một chuyến.

Tạ Tri Học cùng mấy vị quan từng ghi nợ hoành thánh ở chỗ ta trước đây đã cho người báo tin trước.

Bảo ta lập tức đóng cửa giữ mình, thậm chí còn cho người đưa đến mấy tên hộ vệ.