Chương 2 - Không Ai Còn Là Trẻ Con Nữa
5
Sau khi họ đi, ta vẫn ngày ngày dẫn theo mấy đứa nhỏ vào thành ăn xin.
Một là đem y phục và trang sức từng thay ra trước đó, đổi lấy ít vật dụng cần thiết để sinh hoạt. Hai là xem có thể dò la được chút tin tức gì về nghĩa quân hay không.
Phần lớn thời gian, chúng ta chẳng nghe ngóng được gì cả. Phần lớn thời gian, cũng không xin được bao nhiêu tiền. Thỉnh thoảng may mắn có được ít thức ăn—cũng chỉ đủ để cầm hơi qua ngày.
Chiến tranh giáng xuống như một đòn hủy diệt lên kinh tế địa phương. Sau mỗi trận đánh lớn, giá cả leo thang, cuộc sống của người dân ngày càng khốn khó. Trên phố, những đứa trẻ lang thang, áo quần rách nát, nối đuôi nhau đi ăn xin… đông vô kể.
Còn rất nhiều đứa nhỏ ngay cả đồ ăn cũng xin không được, uể oải co mình lại trong góc tối, lặng lẽ dần hòa vào màn đêm của ngõ hẻm. Rồi đến một ngày nào đó, bị người ta phát hiện, đặt lên xe đẩy chở hàng hoặc xe kéo nước thải, chở thẳng tới bãi tha ma vứt xuống.
Trong căn nhà gỗ nhỏ của ta không có lương thực, chỉ có vài vật dụng sinh hoạt thường ngày như nồi niêu bát đũa, mấy bộ quần áo để thay, và một ít hạt giống rau cùng lương thực mà ta từng cẩn thận cất giữ.
Ta không phải thần tiên, cũng chẳng có ngón tay vàng gì. Dù ta có thể chỉ huy một đám nhóc con trồng được hạt giống xuống đất, thì cũng không thể khiến chúng vài ngày là nảy mầm kết trái, đủ để giải quyết tình cảnh cấp bách lúc này.
Mọi người đều sống rất khó khăn. Đồ ăn xin được quá ít, không đủ nuôi sống hơn hai mươi cái miệng. Dù chúng chỉ là lũ trẻ con, dù chúng rất ngoan, ăn rất ít, rất ít… nhưng vẫn là không đủ. Ta chỉ có thể trơ mắt nhìn từng đứa một gầy gò đi, sắc mặt vàng vọt, thân hình héo úa.
Năm ngày nữa lại trôi qua ta hoàn toàn từ bỏ ý định dò hỏi tin tức của nghĩa quân.
Cứ tiếp tục như vậy… không được.
Ta không thể đặt cược hy vọng vào một tương lai mù mịt không thấy được. Ta không thể cứ mơ mơ hồ hồ mà chờ đợi từng ngày trôi qua thế này.
Ta phải tìm cách— Phải tận dụng toàn bộ những gì mình đang có, gom góp mọi thứ có thể, để kéo dài sinh mệnh cho những đứa trẻ này thêm một chút nữa.
6
May mắn thay, khi ấy là mùa hè. Thật sự may mắn khi ấy là mùa hè. Dù mùa hè trên núi nóng bức và khó chịu, nhưng so với mùa đông lạnh giá và tuyệt vọng thì vẫn tràn đầy hi vọng hơn nhiều.
Tính cả ta, lúc ấy còn lại hai mươi hai đứa trẻ. Lớn nhất mười hai tuổi—là ta. Nhỏ nhất vừa tròn năm tuổi—là Triệu Tử Kỵ.
Năm tuổi… là một khái niệm thế nào nhỉ? Ở hiện đại, đó là độ tuổi vừa lên lớp lớn ở mẫu giáo, là cái tuổi vừa thấy đồ chơi là sáng mắt, phải chạy lại sờ sờ nắm nắm, không được thì lăn ra ăn vạ, khóc nháo đòi cho bằng được.
Thế mà Triệu Tử Kỵ năm tuổi, đã theo ta vào núi nhặt nấm dại rồi.
Núi Kỳ là một ngọn núi giàu có, đúng là một bảo sơn. Cách căn nhà gỗ không xa có một con suối ngầm, khiến cho đất đai quanh đó vô cùng màu mỡ—cũng là một trong những lý do khiến ta quyết định khai ruộng thử nghiệm tại đây.
Dù sao khi ấy có nương ủng hộ, ta có rất nhiều lựa chọn.
Bên ngoài nhà gỗ là cả một mảng rừng rậm rạp kéo dài. Mỗi lần sau khi mưa, nơi này lại mọc đầy những loại nấm dại có thể dùng làm lương thực.
Nhưng phần lớn nấm dại đều có độc. Cho nên, dù bước vào rừng có thể dễ dàng tìm được nấm khắp nơi, ta vẫn chỉ dám chọn hai ba loại mình chắc chắn nhận biết được, ngoan ngoãn hái lấy, không dám tham.
Bởi vì—bọn nhỏ còn quá bé. Ta không thể, cũng không dám, mang bọn chúng mạo hiểm theo mình.
7
Những ngày sau đó, trôi qua trong bộn bề bận rộn và hỗn loạn.
Ta dẫn theo một đám nhóc con cùng nhau cày đất, trồng rau, bắt cá, săn thỏ rừng. Sau mưa thì đi hái nấm, bình thường thì vào rừng tìm chút sản vật núi rừng đem về.
Lúc đầu, những gì thu được chỉ vừa đủ lấp đầy bụng, dần dần mới có chút dư dả.
Về sau, ta phát hiện mấy cây chè dại. Thử nếm qua thấy mùi vị cũng không tệ.
Phải biết, phần lớn chè dại đều có độc, uống nhiều sẽ đau bụng tiêu chảy. May mắn thay, mấy cây ta tìm được có vẻ vô hại.
Thế là chúng ta dùng nước suối nấu chè dại, đem xuống núi bán đổi lấy ít tiền.
Dần dần, cuộc sống mới có chút khởi sắc, đủ để thở ra một hơi nhẹ nhõm.
Đợi đến khi vật giá hạ nhiệt, tình hình cũng bớt căng hơn, ta mới lén lấy số y phục và trang sức còn cất giữ, cuốc bộ hơn mười dặm đường núi đến thành Hy bên cạnh để bán.
Trước kia, khi đói đến đường cùng, ta cũng từng mang vài món ra bán, nhưng mấy tiệm cầm đồ khi ấy ép giá quá thảm, phần lớn ta vẫn giữ lại, chưa nỡ bán ra.
Lần này xuống núi, ta nghe được một tin tốt: Có vẻ như Quách Nhượng và bốn người kia vẫn còn sống, hơn nữa còn trở thành con bài mặc cả mạnh mẽ, tạm thời xoay chuyển cục diện chiến sự.
Còn tin xấu là: Nghĩa quân liên tiếp bại trận, trong những lời đồn đại giữa dân gian, đã dần dần rơi vào cảnh “ngày tàn hoàng hôn”…
Những tin tức ấy, đối với ta mà nói… nói sao nhỉ? Nếu là hồi ban đầu, có lẽ ta đã lại lo lắng đến mức ăn không vô, ngủ không được.
Thế nhưng sau khi đi bộ hơn mười dặm đường núi trở về, dù trong lòng vẫn canh cánh những chuyện ấy, ta vừa đặt lưng xuống giường đã ngủ một giấc không mộng mị.
Tỉnh dậy nhìn sắc trời ngoài cửa sổ đã dần sáng, trong lòng bỗng chốc bâng khuâng— Quả nhiên, trước sự sống còn, mọi thứ khác… đều hóa thành chuyện nhỏ.
8
Ngày nối ngày trôi qua cứ thế mơ hồ lăn lộn sống tiếp, thoắt cái đã năm năm. Mãi đến lúc đó, gia gia ta mới lần ra được tung tích, mang người đến tìm chúng ta.
Khi ấy, ta đang dẫn bọn nhỏ gặt lúa. Mấy vị tướng quân của nghĩa quân len lỏi giữa đám người, tìm kiếm bóng dáng của con mình.
Lúc thấy đám trẻ vẫn còn sống, ban đầu là sống mũi cay xè. Thấy bọn chúng thuần thục lo toan việc ruộng đồng, bọn họ rốt cuộc nhịn không được mà gào khóc thành tiếng.
Hôm đó, chim muông trong núi bị dọa sợ đến mức dắt díu nhau bay sạch.
Gia gia nắm lấy tay ta, nước mắt lưng tròng: “Gia gia có lỗi với cháu quá…”
Ta tròn mắt, nước mắt vòng quanh, nhưng cuối cùng vẫn cố nhịn, không nỡ nói ra— Thật ra ta đã sớm muốn bỏ chạy rồi, chỉ là… một mình ta sống dễ hơn nhiều so với dắt theo cả đám nhóc con thế này.
Chỉ có điều, mấy lần ta lén chuồn đi, đều bị Triệu Tử Kỵ nước mắt ngắn dài tìm được mà kéo về.
9
Thằng bé Triệu Tử Kỵ ấy… ta nhớ rất rõ.
Trong hai mươi mấy đứa trẻ, nó là đứa nhỏ tuổi nhất, lại là đứa có dung mạo đẹp nhất—ngoan ngoãn, trắng trẻo, non mềm như bánh bao mới hấp, xinh xắn đến mức giống hệt một bé gái.
Thực ra lúc đầu ta cũng tưởng nó là con gái thật.
Thế nhưng, chính là đứa trẻ như vậy—mới năm tuổi thôi. Cùng chúng ta vượt núi lội suối chạy trốn, bàn chân bị giày mài rách, dính bết vào đế, mỗi bước đi là để lại một dấu chân máu. Thế mà nó chẳng rên lấy một tiếng—cho đến khi phát sốt mà ngất lịm đi.
Ta năm tuổi khi ấy đang làm gì nhỉ? Chắc còn đang lăn lộn đòi ăn kem với đồ chơi thôi…
Sau đó, chúng ta buộc phải dừng lại cuộc trốn chạy. Ta thu xếp cho những đứa trẻ khác, rồi cõng nó đi tìm thầy thuốc.
Quá trình cầu y không hề dễ dàng, đã trải qua không ít chuyện. Chúng ta đi rất xa, ta còn vấp ngã mấy lần, có lần đau đến mức không kiềm được mà khóc òa. Nhưng giờ nghĩ lại, chỉ cảm thấy khi ấy ta vẫn còn quá non nớt.
Vấp ngã mấy cái thì đã sao? Vết sẹo trên người cũng chỉ lành lành nông nông, rất nhanh sẽ chẳng còn đau nữa.
Ít ra… vẫn còn sống, còn hơn biết bao dân thường đã bỏ mạng dọc đường.
Ta vẫn nhớ, tiếng khóc của ta đã đánh thức Triệu Tử Kỵ đang hôn mê. Nó vừa mở mắt, câu đầu tiên lại là:
“A tỷ… tỷ thả muội xuống đi, tỷ tự mình đi thôi…”
Một đứa trẻ mới năm tuổi thôi mà, có những đêm còn chẳng dám ngủ một mình. Thế mà nó lại nói với ta—thả nó xuống đi, bỏ nó lại, nó đã chuẩn bị sẵn sàng để một mình đối mặt với cái gọi là “chưa biết”, thậm chí là… cái chết.
Đương nhiên là ta không bỏ lại nó. Dù lúc đó, ta quả thật đã từng thoáng nghĩ—nếu buông xuống, có lẽ sẽ dễ thở hơn đôi chút, vì khi ấy ta đã mệt mỏi và đau đớn đến cực hạn. Nhưng cuối cùng, ta vẫn cõng nó đi tiếp.
Sau này, ta xin được thuốc cho nó, chúng ta đến được núi Kỳ, từ đó về sau, nó liền dính chặt lấy ta không rời nửa bước.
Ban đầu vì an toàn, dù chúng ta có ba gian nhà gỗ, ta vẫn để cả đám nhóc con chen chúc ngủ chung một phòng. Khi đó, trên giường dưới đất toàn là người.
Trên giường là mấy đứa nhỏ tuổi nhất, có cả hai bé gái. Còn mấy đứa con trai lớn hơn một chút thì trải chiếu nằm đất.
Chúng ta tìm được vài cánh cửa gỗ từ những ngôi làng hoang, mang về chùi rửa sạch sẽ, phơi khô. Ban ngày dựng lên dựa vào vách tường, đến tối thì hạ xuống làm giường, trải thêm chăn bông lên cũng có thể ngủ ngon lành.
Tính theo tuổi, Triệu Tử Kỵ là nhỏ nhất, vốn nên được sắp xếp nằm trên giường. Thế nhưng nó không chịu.
Cuối cùng, ta đành để nó nằm cạnh ta, cùng ta trải chiếu nằm đất.
Ta ngủ, nó mới dám ngủ. Ta tỉnh, nó cũng giật mình tỉnh theo.
Sau khi ổn định chỗ ở, nó bắt đầu gặp ác mộng mỗi đêm. Ta đành nằm bên, nhẹ giọng hát ru cho cả đám nhỏ cùng ngủ.
Về sau, bọn trẻ dần lớn hơn, ta mới bắt đầu cho chúng ngủ tách riêng ra. Nhưng dù tách, căn phòng vẫn kín người—trên giường, dưới đất đều nằm đầy.
Tất nhiên, Triệu Tử Kỵ vẫn theo ta ngủ đất, mỗi đêm vẫn là ta dỗ nó ngủ say.
Trời thương có thấu—ta, một nữ sinh đại học thuần khiết, đến bạn trai còn chưa từng có, vậy mà vừa trọng sinh liền thành nửa cái “mẹ”.
10
Lần gặp mặt này, gia gia và các tướng lĩnh đi cùng đều có ý muốn đón bọn trẻ rời đi.
Dù họ hiện tại thế lực suy tàn, không thể cố thủ lâu dài ở bất cứ nơi nào, nhưng—tàu nát cũng còn ba cân đinh. Huống chi, ở chỗ ta cũng chưa chắc đã tuyệt đối an toàn.
Bọn họ tìm được chúng ta, triều đình chưa chắc không làm được.
Chỉ là, ta vẫn luôn tận tâm tận lực, bảo vệ bọn trẻ khá tốt. Chúng ở trên núi, ta không để chúng tùy tiện lộ diện. Chuyện gì cũng là ta đứng ra đối mặt trước tiên.
Lúc gia gia đề nghị đưa ta đi, ta đã im lặng rất lâu.
Sau đó, ta lấy ra trước mặt ông một đoạn dây khoai lang, cùng một túi nhỏ hạt giống lúa lai.
Việc lai tạo lúa nước là đề tài nghiên cứu mà ta luôn theo đuổi. Cũng chính vì lý do đó, ta không chọn trồng trọt trong vườn hay ở những thửa ruộng màu mỡ, tiện nghi hơn trong trang trại dưới chân núi.
Bởi vì—ở nơi này, ta tình cờ phát hiện một quần thể lúa hoang có biểu hiện bất dục đực. Để phòng bất trắc, ta liền dựng nhà, khai ruộng ngay gần nơi đó, cẩn thận gìn giữ và lai tạo suốt những năm qua