Chương 5 - Duyên Nợ Cung Đình
Trên án còn ba bản di chiếu.
Dặn Ty y dược: mùa đông năm nay không lạnh, phải phòng dịch xuân đề phòng năm đói.
Căn dặn Nội vụ phủ: tang lễ hoàng hậu chớ làm chậm trễ cung nữ xuất cung gả chồng.
Lại dặn: đưa Hằng nhi về bên mẹ ruột, chớ để mẹ con bị chia lìa nữa.
Không có lấy một lời để lại cho hắn.
Toàn cung tang thương.
Duy chỉ có Yến Lăng… không hẳn là buồn.
Chỉ là… có đôi chút phiền muộn.
Phiền muộn vì nửa tháng trước cùng Chưởng Châu đại cãi một trận, đến nay nàng vẫn chưa cúi đầu nhận sai.
Phiền muộn vì Lễ bộ không biết nhìn sắc mặt, quỳ ngoài điện nói chẳng rõ nên định thuỵ hiệu thế nào, chép sinh bình ra sao, nhập lăng nơi đâu.
Tấu chương chồng chất như tuyết ép trên mái ngói, trăm quan đoán ý long nhan qua chuyện Nội vụ phủ bị tống ngục, thảy đều không tiếc bút mực mà viết lời ca ngợi.
Kẻ thì dâng rằng nên phong thuỵ là “Hiền Đức Ôn Cung”, nhưng hắn còn nhớ, nàng từng vì hắn bị cắt khẩu phần ăn mà vác đao mắng thái giám ba con phố, khóc vì hắn đói đến phát run.
Kẻ lại tâu rằng sinh bình nàng cao quý vô ưu, nhưng hắn nhớ rõ — từ ngày đăng cơ đến nay, hai người chẳng phải tranh cãi thì cũng hờn giận.
Nàng lúc nào cũng khóc, luôn luôn là đang khóc.
Nói đến chuyện nhập lăng, hắn rốt cuộc cũng nghĩ đến chút tốt lành của nàng.
Dù gì cũng từng là phu thê, hắn không tiếc ban nàng vinh hoa sau khi chết, ân chuẩn đồng táng một huyệt.
Thánh chỉ hợp táng còn chưa kịp hạ, Tôn cô cô quản sự Tiêm Hà cung đã quỳ gối ngoài điện, bẩm:
“Nương nương lúc sinh tiền có một điều muốn xin ân chuẩn.”
Yến Lăng mơ hồ đoán được.
Đa phần là nàng muốn cúi đầu nhận sai, xin phong thuỵ, xin truy phong, xin hắn đừng cho Minh Thư nhập cung.
“Không phải. Nương nương nói không muốn hợp táng cùng bệ hạ, tự xin được nhập phi lăng.”
Yến Lăng sững người.
Tôn cô cô cúi đầu, nghẹn ngào nói tiếp:
“Nương nương nói… kiếp này đã quá đỗi thảm thương, dù là cõi trời hay suối vàng, cũng chẳng muốn gặp lại bệ hạ nữa.”
4
“Nương nương, người nhất định phải bảo trọng thân mình.” Đồng Nhi dâng bản đồ lăng tẩm phi tần đặt dưới gối ta,
“Ca ca nô tì đã thu xếp thỏa đáng mọi sự, còn dặn nô tì thay huynh tạ ơn nương nương năm ấy có ơn cứu mạng.”
Ca ca Đồng Nhi vốn là thợ xây lăng. Theo luật, người xây lăng xong phải xử tử,
đề phòng sau này thông đồng kẻ gian mà đào mộ trộm báu vật.
Ngày ấy khi Đồng Nhi chải đầu cho ta, ta thấy bóng nàng trong gương đồng rơi lệ lén lút.
Vừa hỏi thì nàng đã rưng rưng thú thật: lo ca ca mình không giữ được mạng.
Quan tài của ta có cơ quan ngầm, lăng phi dưới đất nối liền mật đạo thông ra sông ngầm, có thể đào tẩu.
Việc này ta đã mưu tính nhiều năm.
Chỉ là giữa mùa đông băng giá, ta lại nhiễm hàn, còn bất cẩn uống phải mấy ngụm nước lạnh.
Khi bị dòng nước cuốn đi, ta đã tưởng mình thật sự phải chết.
Đến khi lờ mờ tỉnh lại, lại thấy bản thân nằm sấp trên một con lừa nhỏ đen tuyền.
Con tiểu lộc đen lặng lẽ cõng ta và hòm thuốc lắc lư trên đường, vừa hay nước trong phổi cũng theo đó mà ói ra hết.
Người dắt lừa là một lão giả mang đấu lạp, lưng đeo giỏ cá, thong dong vừa đi vừa cười nói:
“Lão già ta gieo một quẻ, nói hôm nay nơi này sẽ câu được cá lớn. Quả nhiên vớ được một con chép vàng.”
Ta nghi hoặc nhìn chiếc giỏ trống rỗng, lễ độ hỏi:
“Đa tạ lão trượng cứu mạng. Dám hỏi lão nhân gia định đi đâu?”
“Già này à, muốn đến Ngô Châu cứu tế.”
Cứu tế?
Ta nhớ trước kia, Lý ngự sử – Lý Thận Chi bị đày đến Giang Nam Ngô Châu.
Nhưng tấu chương năm trước từ địa phương trình về, lại không hề nói có nạn dịch.
“Dẫm sương biết băng, trú hang biết mưa.
Học trò ta nói: năm rồi mùa đông không rét, lại ít mưa, e rằng thu tới sẽ sinh dịch bệnh.
Cố sống cố chết ép ta đến Ngô Châu, trị bệnh cứu người.”
Lão giả vừa nhắc đến y thuật, ta mới phát giác thân mình bị ngâm trong nước lạnh quá lâu, vậy mà lại không phát hàn.
Trong lòng dâng lên kính phục, ta vội vàng hỏi:
“Lão trượng, chẳng hay có thể để ta đi cùng được chăng?
Tiểu nữ biết chút y lý, tuyệt không làm phiền trên đường.”
Lão giả nhìn thấu tâm tư ta chỉ bằng một ánh mắt, phẩy tay cười:
“Gọi ta là Hà lão là được. Theo thì theo, nhưng đừng gọi ta là thầy, già này tuổi đã cao, không chịu nổi cái danh ấy nữa.”
Dứt lời, Hà lão ném cho ta một chiếc đấu lạp và một hộp cao nhỏ:
“Đội đấu lạp vào, bôi mặt cho sạm vàng một chút, uống viên thuốc này cho đổi giọng, giả làm cháu trai ta – tránh bị người khác để tâm.”
Chuyện ấy quả hợp lòng ta.
Yến Lăng đón Thôi Minh Thư nhập cung rồi, hẳn sẽ không còn nhớ đến ta nữa.
Nhưng vì cẩn trọng, vẫn nên đề phòng một chút.
Đường đến Ngô Châu xa thẳm, đợi chúng ta đến nơi, tiết trời đã ấm đến độ chỉ cần áo đơn.
Từ xa nhìn lại, trước cổng thành Ngô Châu đã có người đứng chờ bên xe ngựa từ lâu.
“Kia là học trò ta, Lý Thận Chi.”
Năm đầu Yến Lăng mở ân khoa, chính tay hắn điểm bảng, chọn Lý Thận Chi làm Thám hoa.