Chương 7 - Chàng Làm Quan, Thiếp Trở Thành Dĩ Vãng

Ta gật đầu. Chàng nhìn ta, lại nhìn tay mình đặt trên bụng ta.

Hồi lâu không động tĩnh.

Ta gọi chàng mấy tiếng, chàng mới đột nhiên mắt đỏ hoe, che mặt khóc nấc lên. Lòng ta mềm đi, nói với chàng:

“Khóc cái gì mà khóc?”

Chàng nghẹn ngào đáp:

“Cố Lân ta cô độc bao năm, nào ngờ có ngày thế này.”

Mắt ta cũng đỏ theo. Chàng hãnh diện nhìn ta nói:

“Đào nhi, ta có con rồi.”

Ta cạn lời.

Phải, chàng có con rồi, như thể người khác không có vậy.

Trên thuyền, ta nôn đến trời đất đảo điên, xuống thuyền ta lại nôn đến đất trời mịt mù.

Tới thành Dương Châu, ta vẫn chưa thấy cái gì gọi là “danh đô Hoài Tả, chốn đẹp Trúc Tây” mà chàng nói, cũng chưa thấy “hai mươi bốn cầu trăng sáng đêm”, chưa bước qua “mười dặm gió xuân Dương Châu.”

Chỉ là ngày ngày ở trong phủ nôn oẹ.

Chàng thương ta, cách bụng mắng đứa nhỏ:

“Nghịch tử không yên ổn, hành hạ mẫu thân ngươi, đợi ngươi ra ngoài xem phụ thân trị ngươi như thế nào!”

Chàng càng mắng, con càng hành hạ ta dữ hơn.

Đứa nhỏ hành hạ ta trọn tháng mới yên, ta vịn tay Tiểu Thúy, muốn ra ngoài thăm thú thành Dương Châu.

Tiểu Thúy khó xử nói:

“Phu nhân, đại nhân dặn không được ra ngoài.”

Ta nói:

“Hắn là đại nhân, ta là phu nhân của đại nhân, ta là trời cao đâm thủng đầu hắn, ta nói là được.”

Tiểu Thúy vẫn ngăn:

“Phu nhân, đợi đại nhân về rồi hãy nói.”

Ta chống nạnh bảo:

“Ngươi đi không, không đi thì ở nhà.”

Tiểu Thúy đành theo ta ra ngoài, dọc đường không ngừng lải nhải, khi thì bảo đi chậm, lúc lại dặn cẩn thận. Ta nhìn phố phường phồn hoa, nghe khắp nơi nói giọng Ngô, thấy thật mới lạ thú vị, tràn đầy sức sống.

Nghe Tiểu Thúy cằn nhằn mãi không chịu được, ta đành tìm quán trà ngồi nghỉ, sai nàng sang tiệm đối diện mua điểm tâm.

Tiểu Thúy dặn dò dăm ba câu rồi mới chịu đi mua. Ta thở phào nhẹ nhõm, ngồi ngắm quanh quất.

Thấy một tiệm thêu lớn, mặt tiền rộng rãi, trong đầy gấm vóc lụa là.

Chưa kịp nghĩ, chân ta đã tự bước tới. Đến cửa, thấy trong đó các thợ thêu ngồi thành hàng, cúi đầu khâu vá, một phụ nhân đi lại chỉ dẫn.

Ta nhìn kỹ hoa văn, đường kim, bất giác mê mẩn.

Thấy họ thêu một bức bình phong lớn, một mặt là tiên nữ đang bay, mặt kia là bách điểu triều phụng. Ta nhìn mà không dời bước nổi.

Phụ nhân đó ngước lên hỏi:

“Phu nhân là muốn học thêu hay ngắm thêu phẩm?”

Ta hỏi:

“Bức bình phong ấy thêu bằng cách nào?”

Phụ nhân mỉm cười nói:

“Đó là phương pháp thêu hai mặt đặc trưng của tiệm chúng tôi. Phu nhân đang mang thai, không cần đứng ở cửa, vào trong từ từ xem.”

Ta muốn vào trong từ từ ngắm, lại thấy Tiểu Thúy đã mua xong điểm tâm, đang lo lắng ngó đông ngó tây. Ta đành thu chân, nói với bà ấy:

“Hôm nay không tiện, lần sau ta sẽ ghé lại.”

Ta sai Tiểu Thúy đi dò hỏi, biết được chủ nhân của tiệm thêu ấy là một thợ thêu nổi danh Tam Ngô, người ta gọi là Ngô Đại Gia, vốn quê Tô Châu, theo phu quân đến thành Dương Châu này.

Bà ấy là một tay thêu Tô Châu nổi tiếng khắp thiên hạ, thêu phẩm từng làm cống phẩm, còn từng thêu Quan Âm cho Thái hậu nương nương.

Tuổi tác nay đã cao, mắt không còn tinh, nên mở tiệm thêu, nhận đệ tử và bán thêu phẩm.

Nghe vậy lòng ta liền rung động.

Ta mua chuộc Tiểu Thúy, giấu giếm phu quân, lén lút ra ngoài.

Ngô Đại Gia hỏi ta người phương nào, vì sao đến thành Dương Châu. Ta đáp:

“Ta là người đất Thục, theo phu quân đến Dương Châu.”

Bà hỏi phu quân ta làm nghề gì, ta đáp:

“Phu quân ta đi sớm về khuya, ta cũng chẳng rõ chàng làm gì hàng ngày.”

Ngô Đại Gia thở dài nói:

“Cũng là người lao khổ.”

Bà hỏi ta có biết thêu không, ta nói từng học từ mẹ, còn lấy nghề đó mà kiếm sống.

Nghe vậy bà liền vui vẻ, bảo ta thêu một mẫu cho bà xem.

Ta liền thêu một đóa phù dung, rồi thêu thêm một con cá chép, bà nhìn liền tấm tắc khen:

“Cô nương đúng là cầu được khéo léo từ tiên nữ dệt vải, trời sinh đã có duyên với nghề thêu.”

Ngô Đại Gia giữ ta lại tiệm, tận tình chỉ bảo kỹ thuật thêu. Bà khen:

“Với sự lĩnh hội của cô nương, sớm muộn cũng vượt qua ta.”

Một hôm ta đang cắm cúi cầm kim, Ngô Đại Gia nói:

“Phủ đài đại nhân sẽ đến chọn cống phẩm, mọi người phải chuẩn bị tinh thần.”

Nghe vậy ta giật mình hoảng hốt, liền đứng lên nói:

“Ta đau bụng.”

Ngô Đại Gia hốt hoảng, vội sai người đỡ ta, định đưa đi mời đại phu. Ta nói không cần, vội vàng chạy ra cửa.

Vừa bước ra đã thấy một chiếc kiệu dừng ngay trước cổng. Rèm kiệu vừa vén, phủ đài đại nhân uy nghiêm tuấn tú bước xuống.

Ta liền quay phắt lại nói với người đỡ ta:

“Ta hết đau rồi.”

Ta trốn sau bức bình phong, thấy Ngô Đại Gia cung kính mời phu quân của ta vào bên trong.

Họ đi về phía nào, ta trốn về phía khác; họ tiến lên, ta lùi xuống.

Phu quân ta lúc nào cũng lạnh lùng, mặt không nở nụ cười, mắt không liếc ngang, vẻ mặt nghiêm nghị.

Các thợ thêu đỏ mặt len lén nhìn chàng, vừa nhìn vừa thì thầm. Có người nói:

“Phủ đài đại nhân trẻ thế này sao?”

Lại có người bảo:

“Đã trẻ thế này, lại còn đẹp trai thế kia, như công tử trong tranh.”

Rồi có người cười bảo:

“Dẫu là công tử trong tranh cũng là công tử của người khác. Nghe nói đại nhân rất thương yêu phu nhân của mình, phu nhân mang thai thèm ăn quýt chua, đại nhân đã sai người lùng khắp thành Dương Châu giữa mùa hè.”

Mọi người thở dài:

“Không biết là nữ tử thế nào mà may mắn như vậy.”

Ta mím môi cười, chính là nữ tử như ta, mới có được phúc phận ấy.

Ta đang cúi đầu cười thầm, bỗng bên cạnh im phăng phắc, có giọng nói lạnh lùng trên đầu:

“Nàng cúi thấp thêm chút nữa đi.”

Đó là giọng nói mang đầy sự giận dữ. Ta cắn môi ngẩng đầu lên.

Phu quân đang chắp tay sau lưng, mặt điềm tĩnh, lặng lẽ nhìn ta bày ra vẻ mặt đáng thương. Chàng hỏi:

“Nàng còn bao lâu mới thêu xong?”

Ta đáp khẽ:

“Chỉ còn một cánh hoa.”

Chàng nói: “Ừm.” Rồi đi tới ghế ngồi xuống.

Ngô Đại Gia nhìn ta, lại nhìn chàng, cười nói:

“Đại nhân không hài lòng điều gì sao? Có muốn xem thêm không?”

Chàng nâng chén trà thổi nhẹ, nói:

“Không có gì bất mãn, không cần xem thêm. Ta đợi phu nhân ta.”

Ta theo chàng về nhà.

Mặt chàng đen như đáy nồi, ngồi trên ghế tức giận nhìn ta.

Ta ôm bụng đứng trước mặt chàng.

Chàng bảo ta ngồi, ta liền ngồi.

Ngón tay chàng gõ cộc cộc lên bàn, rồi nói:

“Lý Bích Đào, bụng nàng không nhỏ, gan nàng cũng không nhỏ.”

Ta cúi đầu nhìn bụng, quả thật không nhỏ.

Chàng nói:

“Nàng dám giấu ta tự ý ra ngoài, nàng không sợ bị bắt cóc, nhưng ta lại sợ mất mặt.”

Chàng quả là chê ta làm mất mặt.

Chàng bảo:

“Lỡ nàng xảy ra chuyện gì, nàng bảo ta phải làm sao? Phá tung cái thành Dương Châu này chăng?”

Mẫu thân ta khi mang thai ta vẫn đi khắp nơi, có gì mà xảy ra chuyện?

Chàng lại bảo:

“Sao nàng im lặng? Ta nói nàng một câu, trong lòng nàng cãi lại ta mười câu.”

Ta nào có cãi mười câu, nhiều lắm chỉ cãi một câu thôi.

Chàng thở dài, bảo:

“Lại đây.”

Ta đứng dậy, bước tới thì bước tới. Chàng kéo ta ngồi lên đùi, vuốt bụng ta, bất lực nói:

“Đào nhi, ta bận rộn cả ngày, nàng hãy khiến ta yên lòng. Đợi khi ta rảnh, ta sẽ đi cùng nàng, luôn ở bên cạnh nàng, như thế ta mới an tâm.”

8

Chàng làm gì có lúc rảnh rỗi.

Mùa thu mưa lớn liên miên, chàng bận đến nỗi cơm không kịp ăn, áo không kịp thay, thậm chí không kịp về nhà.

Chàng phải dẫn người đi chống lụt, đắp đê, để nước lớn không phá hoại đồng ruộng, không nhấn chìm Dương Châu thành, không làm mất kế sinh nhai của dân chúng.

Trước khi đi, chàng ngoảnh lại nhìn ta, ta bảo:

“Chàng cứ yên tâm đi, thiếp sẽ an phận ở nhà.”

Ta quả thật an phận ở nhà, khiến chàng yên lòng, nhưng đứa nhỏ trong bụng lại không yên, bên ngoài mưa lớn ào ào, mà đứa nhỏ thì nôn nóng đòi ra đời.

Tiểu Thúy hoảng loạn, cả phủ trên dưới đều hoảng loạn.

Mặt ta tái nhợt, mồ hôi đầm đìa, bình tĩnh bảo họ:

“Gọi bà mụ, đun nước nóng, không được kinh động đến đại nhân.”

Bên ngoài tiếng mưa ồn ào, ta hét còn lớn hơn tiếng mưa.

Bà mụ bảo:

“Phu nhân, đừng la, giữ sức mà rặn.”

Ta cắn chặt môi, không la, giữ sức mà rặn.

Đứa nhỏ rất bướng, không chịu rời bụng mẹ. Bà mụ đè bụng ta nói:

“Phu nhân, đừng sợ, cứ theo hướng mà rặn.”

Ta không sợ, cứ theo hướng mà rặn.

Trời tối lại sáng, sáng lại tối, mưa vẫn không ngừng.

Ta kiệt sức, giọng khàn, đầu óc choáng váng. Tiểu Thúy vừa khóc vừa ép ta uống nước đường, ta nghĩ đến phu quân của mình đang ở đâu, đã ăn cơm chưa, có bị dầm mưa hay không.

Ta thầm nói với đứa nhỏ:

“Con ơi, con phải cố gắng.”

Rồi lại thầm nói với chính mình:

“Lý Bích Đào, ngươi phải cố gắng.”

Lúc này, chợt bà mụ vui vẻ nói lớn:

“Phu nhân, sắp rồi! Đầu đứa bé ra rồi! Đừng thả lỏng, tiếp tục dùng sức!”

Ta không thả lỏng, tiếp tục dùng sức. Ta dồn hết sức mình, nghe tiếng người cười, nghe tiếng con khóc.

Có người bế một sinh linh nhỏ xíu lại gần ta, nói:

“Chúc mừng phu nhân, là một công tử nhỏ.”

Con ta đỏ hỏn, nhăn nheo, trông xấu xí vô cùng, không giống phụ thân tuấn tú của nó.

Đứa nhỏ chào đời mấy ngày, ăn xong lại ngủ, ngủ xong lại ăn, vẫn chưa gặp được phụ thân của nó, nhưng mà nó vẫn vui, hễ trêu là cười toe.

Ta dỗ con ngủ, dỗ đến nỗi chính mình cũng muốn ngủ gật, vừa nhắm mắt một chút đã thấy bên giường có một bóng dáng như Chung Quỳ.