Chương 6 - Chàng Làm Quan, Thiếp Trở Thành Dĩ Vãng

Chàng mời Triệu Cảnh Thăng đến nhà. Chàng bày rượu thiết tiệc, mời Cảnh Thăng ngồi, Cảnh Thăng trừng mắt lạnh giọng hỏi:

“Cố đại nhân, đây là có ý gì?”

Chàng chắp tay vái ba lần:

“Một là cảm tạ Cảnh Thăng đã mắng chửi; hai là cảm tạ huynh đã thay phu nhân ta nói lời công đạo; ba là cảm tạ huynh gặp hoạn nạn chẳng bỏ rơi.”

Ta nghe mà đầy nghi hoặc, Cảnh Thăng cũng vẻ mặt hồ nghi.

Chàng mỉm cười, chậm rãi kể. Chàng nói, hoàng thượng nhắc đến thê tử của chàng, chính là ngầm ép buộc. Bất đắc dĩ, chàng giả vờ muốn bỏ vợ, đó là kế hoãn binh. Chàng lại giả bộ phong lưu, khiến công chúa chán ghét.

Chàng nói, chàng và Cảnh Thăng học chung mười năm, tình như huynh đệ, lại biết huynh ấy chất phác, lòng ngay thẳng, nên lừa Cảnh Thăng trước để gạt người khác. Chàng nói:

“Cảnh Thăng không hay biết, mắng ta giữa phố, bảo ta bạc tình bạc nghĩa, một bước lên cao liền quên vợ.”

Chàng đầy uất ức nhìn ta:

“Huynh ấy mắng rất dữ, trong cơn nóng giận còn đánh ta, đánh đến nỗi ta sưng mắt bầm đầu.”

Triệu Cảnh Thăng đỏ mặt:

“Ta đâu biết huynh là đang bày kế. Vậy sau đó ngự sử tấu rằng huynh tư thông với danh kỹ, hại huynh bị trách phạt giữa triều, mất ân sủng, mất cả chức quan, cũng là kế ư?”

Chàng nhẹ nhàng như gió thoảng, dịu dàng nhìn ta:

“Đào nhi, rót cho vi phu thêm một chén.”

Ta liền rót cho chàng một chén rượu đầy. Chàng cầm chén uống cạn, cười có chút đắc ý:

“Đương nhiên là kế. Công chúa từ đó sinh hận, không còn đeo bám chuyện thành thân. Ta thất sủng mất chức, trong nhà nhất thời vắng vẻ, chỉ có Cảnh Thăng là kẻ ngốc này, mặt lạnh đến thăm, tìm thầy thuốc cho ta, còn chạy khắp nơi cầu tình.”

Cảnh Thăng bực bội:

“Khổ nhục kế của huynh cũng thật tàn nhẫn.”

Mắt ta đỏ hoe, lòng vừa giận vừa thương, giơ tay véo chàng nhưng chẳng đủ sức. Chàng nắm lấy tay ta, cười nói:

“Đào nhi, đừng vội. Vi phu tuy dùng khổ nhục kế, nhưng may mắn có thể thoát thân. Ta sợ công chúa hối hận, dù mang thương tích cũng phải lui tới nơi phong trần, thật sự gian nan.”

Chàng trông thật đáng thương. Ta đỏ mắt nói:

“Phi, đáng đời.”

Cảnh Thăng lại hỏi:

“Sau khi ta rời kinh, huynh làm sao mà thoát thân?”

Chàng cúi đầu cười:

“Giang Nam gặp lũ lụt, triều đình bó tay không kế sách, ta liền dâng tấu trình bày biện pháp, nhân cơ hội xin điều ra ngoài, mới có thể trở về đón thê tử.”

Triệu Cảnh Thăng lúc vào thì đường hoàng, lúc ra thì xiêu vẹo, uống say túy lúy, nắm tay phu quân ta, lẩm bẩm:

“Cố… Cố huynh, tiểu đệ hiểu lầm huynh, xin lỗi huynh…”

Phu quân ta cười nói:

“Huynh đệ nên xin lỗi. Khi huynh đi, ta đã nói, không có tin tức chính là tin tốt nhất, cớ sao huynh lại kể mọi chuyện kinh thành cho thê tử ta nghe? Nàng giờ đang giận dỗi đòi hòa ly với ta.”

Triệu Cảnh Thăng đã say mèm, nghiêng ngả cúi chào ta:

“Phu nhân…”

Phu quân ta vẫy tay, bảo người mang chàng ra ngoài.

Chàng ngồi trong thư phòng tỉnh rượu, ta bưng trà bước vào, nhìn chàng thật lâu, nói:

“Chàng cởi áo ra.”

Mắt chàng sáng rực:

“Đào nhi nôn nóng vậy sao…”

Ta đứng im lặng, chàng liền ba lần năm lượt cởi áo, sau đó nhướn mày hỏi:

“Ngay trong thư phòng này?”

Ta gật đầu:

“Ngay trong thư phòng, chàng quay lưng lại đi.”

Chàng quay lưng, lúc này ta mới nhìn rõ.

Lưng chàng đầy vết thương, mà hôm qua ta chẳng hay biết. Ta cắn môi, không dám khóc thành tiếng, nhẹ nhàng chạm vào vết thương:

“Đau không?”

Chàng đáp:

“Đau lắm.”

Ta lại hỏi:

“Chàng trách ta không tin chàng sao?”

Chàng đáp, giọng đầy ấm ức:

“Trách, mà cũng không trách. Đào nhi, nàng thật nhẫn tâm. Vi phu về muộn một bước, e là chẳng còn gặp được nàng nữa.”

Ta kéo áo lại cho chàng, vòng tay ôm lấy eo chàng, áp mặt vào lưng chàng. Ta hỏi:

“Chàng ở kinh thành có gặp Trương Trung Đường không?”

Chàng sững sờ:

“Tất nhiên là có, ông ấy cũng là người Thục Châu, sao nàng lại hỏi vậy?”

Ta đáp:

“Ông ấy chính là người sinh ra thiếp.”

Phu quân ta xoay người lại, mặt đầy kinh ngạc.

Ta kể chàng nghe về thân thế của mình.

Ta nói, năm xưa ông ấy vào kinh ứng thí, mẫu thân ta mang thai, nửa năm không nhận được tin tức.

Mẫu thân sợ hãi, một thân thai phụ đi đến Cẩm Thành tìm kiếm, nghe nói ông ấy đỗ Trạng Nguyên, cưới tiểu thư nhà tướng phủ, lòng mẫu thân liền lạnh lẽo.

Mẫu thân định vào kinh tìm, nghĩ đến mười năm đèn sách của ông, sợ vì chuyện phu thê mà làm hỏng tiền đồ, bèn lặng lẽ sinh ra ta, quyết không gặp lại người phụ bạc.

Phu quân ta lặng thinh, mắt dán vào ta mà thất thần.

Nửa đêm ta tỉnh dậy, thấy chàng ngồi bên cửa sổ, ánh trăng chiếu lên người chàng.

Ta ôm ngực hỏi:

“Chàng nghĩ gì vậy?”

Chàng giọng khàn khàn, đáp:

“Đào nhi, ta chỉ là sợ hãi.”

7

Thoáng chốc lại thêm một xuân.

Cố Lý thị ta vui mừng khôn xiết vì sắp theo phu quân nhậm chức.

Đội mũ ô sa, thân khoác áo phi hồng, trước sau người hầu, trái phải vây quanh. Mang phong thái uy nghi của một quan lớn, chàng chắp tay từ biệt cố nhân tại Cẩm Châu, dẫn ta lên thuyền vạn lý của Đông Ngô, hướng về thành Dương Châu trăng sáng đôi phần.

Quay người lại, chàng nghiêng đầu nhìn ta hỏi:

“Phu quân của nàng đẹp đến thế sao, khiến nàng chẳng nỡ rời mắt?”

Ta hờn dỗi đáp:

“Ngươi nào có đẹp!”

Chàng mỉm cười nói:

“Phu nhân của ta nay đã là người của quan phủ, cớ sao vẫn không điềm tĩnh chút nào?”

Ta nhéo lên mu bàn tay chàng, hừ nhẹ một tiếng:

“Mới làm quan chó được hai ngày đã chê thê không đoan trang rồi sao!”

Nắng chiếu nước sông phẳng lặng, thuyền như bay trên trời.

Lần đầu xa nhà, lòng ta vừa lo lắng vừa háo hức. Ngồi trong khoang thuyền, tay khâu vá nhàn rỗi, lúc lại vén rèm ngắm nhìn.

Ta ngắm nước sông lấp lánh như vảy cá, ngắm núi non hai bờ xanh biếc, ngắm không hết thuyền bè qua lại như con thoi, nhìn chẳng chán bóng chiều thuyền buồm ngàn chiếc.

Muốn ra đầu thuyền ngắm cảnh, nhưng lại sợ người hầu nhìn thấy, mất thể diện của bậc phu nhân.

Hạ rèm xuống, ta nhìn chàng. Chàng cuộn sách, mắt cúi thấp, dáng điệu ung dung.

Chó Đậu Hoàng nằm phục dưới chân chàng, mắt lim dim, đuôi nhẹ đong đưa, chẳng chút rối ren. Đến cả chó cũng trầm ổn hơn ta.

Ta cúi đầu thêu thùa, lòng lại mơ màng. Bỗng nghe chàng hỏi:

“Sao nàng đột nhiên không ngắm nữa?”

Ta thấp giọng đáp:

“Ngắm tới ngắm lui cũng chẳng có gì hay, chẳng phải là chưa từng thấy cảnh đẹp.”

Chàng cười nói:

“Cảnh đẹp hay không, khi xưa Thái Bạch đi thuyền qua Giang Lăng, cũng từng làm thơ: ‘Thuyền nhẹ lướt qua vạn trùng núi’. Xem ra dọc đường chẳng ít lần ngoái nhìn.”

Thái Bạch ta biết, Thái Bạch uống rượu làm trăm bài thơ, là đại tài tử, đại thi tiên, ông ấy đi thuyền cũng thích ngắm cảnh sao?

Ta ngẩn ngơ hỏi chàng:

“Thật ư?”

Chàng đứng dậy kéo tay ta:

“Phu quân đã bao giờ dối gạt nàng chưa. Đi, chúng ta ra đầu thuyền ngắm.”

Ta theo chàng ra đầu thuyền. Nhìn thấy mây trắng trời trong xanh, gió sông lồng lộng, ta nói:

“Thật đẹp, thiếp muốn thêu lại, chỉ sợ tay không đủ nhanh.”

Chàng ôn nhu mà đáp rằng:

“Không sao, phu quân sẽ thay nàng ghi nhớ, lúc nào nàng muốn thêu, ta sẽ vẽ lại cho nàng.”

Nói rồi, chàng ôm ta vào lòng:

“Mai này khi rảnh rỗi công vụ, ta sẽ dẫn nàng đi khắp nơi ngắm cảnh đẹp thiên hạ, vượt muôn sông ngàn núi. Nàng muốn thêu gì, ta đều giúp nàng ghi nhớ.”

Ta cúi đầu, lòng hơi bất an:

“Thiếp sợ làm mất mặt chàng.”

Chàng cúi xuống nhìn ta, đưa một tay ra trước mặt và nói:

“Nàng xem tay ta đây…”

Ta nhìn tay chàng, thon dài trắng trẻo, đẹp đẽ có lực. Chàng bảo:

“… Tay này viết được văn chương gấm vóc, vẽ được non nước vạn dặm, nhưng cũng có việc không làm được.”

Ta tò mò hỏi:

“Việc gì?”

Chàng cười đáp:

“Không cầm được kim thêu.”

Thấy ta bật cười thành tiếng, chàng nói:

“Tấc có dài, thước có ngắn, vàng chẳng đủ ròng, người không toàn hảo. Ta là Thám Hoa, nàng là thêu hoa, mỗi người đều có sở trường riêng.”

Thuyền đi hơn tháng vẫn chưa tới Dương Châu. Ta dần sinh bực, thêu cũng mệt, ăn uống buồn nôn, ngủ chẳng yên giấc.

Đêm sao đầy trời áp xuống thuyền, thuyền nhẹ lắc chậm chạp, lắc làm ta bất an, chậm làm ta khó chịu. Ta đẩy vai chàng nói:

“Phu quân, thiếp thấy khó ở trong người.”

Chàng lo lắng hỏi:

“Có phải say thuyền rồi không?”

Chưa kịp trả lời, ta đã lao tới mép giường nôn oẹ.

Chàng vội khoác áo đứng dậy,  mau kêu người đưa thuyền ghé vào bờ, nửa đêm tìm lang trung lên thuyền.

Lang trung lau mồ hôi ẩm ướt, bắt mạch cho ta.

Chàng chắp tay sau lưng, mặt đăm chiêu, đứng bên quan sát lang trung, lo lắng hỏi:

“Vì sao phu nhân ta đột nhiên say thuyền?”

Lang trung đáp:

“Không phải say thuyền.”

Chàng lại không yên lòng tiếp tục hỏi:

“Phu nhân ta có phải ăn uống không đúng hay không?”

Lang trung đáp:

“Không phải ăn uống không đúng.”

Chàng nhíu mày, có phần không kiên nhẫn:

“Vậy phu nhân ta là bệnh gì?”

Lang trung thưa:

“Không phải bệnh.”

Chàng hít sâu một hơi, giận dữ nói:

“Ngươi hãy nói thật rõ ràng.”

Lang trung lưỡng lự, lời lẽ dè dặt:

“Ta chỉ là thú y, bắt mạch chưa thật chuẩn, nhưng mạch này, giống như có hỷ sự.”

Chàng ngẩn ra hỏi:

“Cái gì?”

Lang trung ngập ngừng nói:

“Giống như mang thai.”

Chàng vẫn chưa tỉnh, chớp mắt hỏi:

“Hửm?”

Lang trung bực quá nói thẳng ra:

“Trong bụng phu nhân có tiểu hài rồi!”

Chàng đứng ngẩn ngơ tại chỗ. Nhìn dáng vẻ ngốc nghếch của chàng, ta thở dài trong lòng, cảm ơn lang trung thú y, rồi gọi người tiễn hắn xuống thuyền. Ta lại gọi chàng:

“Phu quân, đến đây ngồi đi.”

Chàng liền bước lại ngồi xuống. Ta nắm tay chàng đặt lên bụng mình, nhẹ nhàng nói:

“Phu quân, chàng không nghe lầm, chàng sắp làm cha rồi.”

Lúc này, chàng mới chần chừ hỏi lại:

“Ta không nghe lầm, ta làm cha rồi sao?”