Chương 14 - Quẻ Cát Hay Quẻ Hung
Tôi nghĩ, sau này, thật sự không nên gặp lại nữa.
21
Phó Tranh vẫn không quay trở về.
Vào đầu mùa thu, người anh hàng xóm cùng anh ấy đi cứu nạn ở An Khang, đã trở lại đại viện.
Gương mặt anh tiều tụy, nói với tôi: “Đội trưởng Phó… anh ấy mất tích rồi.”
Khi cứu một đứa trẻ giữa dòng lũ, anh cùng đứa trẻ đó đã bị dòng nước cuốn đi.
Mọi chuyện xảy ra chỉ trong chớp mắt.
Người hàng xóm ấy lại vội vàng nói: “Đội trưởng Phó là quân nhân ưu tú nhất, được huấn luyện chuyên nghiệp nhất!
“Anh ấy nhất định sẽ tự cứu được mình, chắc chắn sẽ sớm được tìm thấy!”
Tôi gật đầu.
Mở miệng, nhưng lại chẳng thể nói nên lời.
Vào tháng Mười năm sau, tôi một mình đến Kinh Thành.
Trên màn hình khổng lồ tại quảng trường trung tâm,
Tôi nhìn thấy lễ duyệt binh long trọng chưa từng có – chính là lễ mà tôi và Phó Tranh đã hẹn sẽ cùng nhau đi xem.
Lực lượng tên lửa chiến lược quốc gia lần đầu tiên tham gia duyệt binh.
Cả nước hân hoan mừng rỡ.
Tôi nghĩ, nếu khi đó Phó Tranh ở bên cạnh tôi, chắc tôi sẽ hạnh phúc biết bao.
Cuộc sống vẫn tiếp diễn.
Từng ngày, từng năm trôi qua.
Người mà lẽ ra rất nhanh sẽ được tìm thấy – Phó Tranh – vẫn mãi chưa quay về.
Tư lệnh gửi đến một tấm biển “Gia đình chiến sĩ công huân hạng nhất”.
Nhà họ Phó không còn ai để nhận, tôi thay mặt Phó Tranh tiếp nhận tấm biển ấy.
Năm tôi hai mươi sáu tuổi, tôi nhận được một khoản tài sản thừa kế khổng lồ.
Cùng với khoản thừa kế đó, là tin Phó Ngôn Xuyên đã qua đời.
Anh ấy bệnh suốt nhiều năm, sức khỏe ngày càng yếu, cuối cùng cũng ra đi.
Một người em họ của Phó Ngôn Xuyên tiếp quản xưởng thêu Phó thị, nhưng năng lực có hạn.
Xưởng thêu ngày càng sa sút, liên tục bị đồn là thua lỗ nghiêm trọng.
Vào đầu đông, tôi bất ngờ nhận được một bức thư do bưu tá chuyển đến.
Người bưu tá áy náy nói: “Trước đây chúng tôi làm thất lạc một bức thư gửi cho Đội trưởng Phó. “Dạo gần đây bưu cục chuyển địa điểm, vô tình tìm lại được lá thư này. “Thật sự rất xin lỗi!”
Anh ta lại hỏi tôi: “Cô là người nhà của Đội trưởng Phó sao?”
Tôi không nói gì thêm, nhận lấy bức thư.
Mở ra, nhìn thấy nét chữ của chính mình: “Anh ơi, Bắc Thị có tuyết rơi rồi, rất đẹp. “Em sẽ vo một quả cầu tuyết, mang về cho anh xem nhé?”
Cơn đau trào dâng như sóng, như cơn gió lạnh tạt vào tứ chi xương tủy.
Tối hôm đó, tôi ôm lá thư, ngồi trong đại viện ngắm trăng.
Ánh trăng rọi qua bóng cây, dịu dàng và kéo dài vô tận.
Kéo về phía một tương lai sáng rực không hồi kết.
Tôi vẫn đang chờ Phó Tranh trở về.
Ngoại truyện
1
Năm tôi hai mươi tám tuổi.
Tôi rời bệnh viện, trở thành bác sĩ chiến địa không biên giới.
Phó Tranh từng dưới ánh trăng, tràn đầy hy vọng nói với tôi: “Hy vọng đất nước mạnh mẽ, thế giới bình yên.”
Giờ đây, tổ quốc đã bình yên phồn vinh.
Nhưng thế giới ngoài kia, khói lửa vẫn chưa từng dừng lại.
Tôi đem khoản thừa kế khổng lồ mình nhận được, quyên góp toàn bộ cho Hội Chữ thập đỏ.
Rồi đeo ba lô lên vai.
Cùng với vô số người trẻ có chung kỳ vọng với Phó Tranh, bước vào vùng chiến sự đầy rẫy bom đạn.
Bước lên con đường mà Phó Tranh và nhà họ Phó đã đi suốt nhiều đời.
Trong đầm lầy nhuộm máu, người sống và người chết nằm chen nhau.
Tôi kéo những người còn thở vào trong những căn lều rách nát tạm bợ.
Họ có màu da khác nhau, màu mắt khác nhau.
Nhưng vào khoảnh khắc mở mắt, họ theo bản năng nắm chặt tay tôi.
Giống như đang bám víu vào một khúc gỗ nổi giữa biển sâu.
Họ ngấn lệ gọi tôi, bằng những thứ ngôn ngữ tôi không hiểu.
Nhưng ánh mắt họ – tôi lại hiểu rõ.
Những cụ già tóc bạc, chắc là đang gọi tôi là “con gái”.
Họ xem tôi là đứa trẻ đã mất của mình, nằm xuống nơi chiến trường.
Những đứa trẻ nhỏ như giá đỗ, nắm tay tôi gọi “mẹ”.
Thế giới có vô số thứ ngôn ngữ, nhưng tiếng “mẹ” thì dường như ở đâu cũng giống nhau.
Tôi dạy một đứa trẻ trúng đạn đang hấp hối, nặn một con búp bê bằng đất.
Lấy từ bùn đất vấy máu nơi chiến trường.
Nó nặn một con bồ câu, đưa cho tôi.
Trong khoảnh khắc cuối cùng mở mắt, ánh mắt nó rực rỡ như có sao trời.
Nó nói gì đó, giới thiệu về chú chim bồ câu của nó, tôi nghe không hiểu.
Người bạn đồng hành nước ngoài bên cạnh dịch cho tôi: “Nó nói, đó là chim bồ câu hòa bình.”
Đứa trẻ nép vào lòng tôi, nhắm mắt, ngừng thở.
Tôi cúi đầu, vuốt nhẹ con búp bê bằng đất vẫn luôn giữ trong ngực.
Trong muôn trùng khói lửa, trong đôi mắt mờ mịt, tôi lại nhìn thấy Phó Tranh.
Anh đứng nơi xa, mà cũng như ngay trước mắt.
Vẫn dịu dàng như trước, nhẹ nhàng gọi tôi: “Chiêu Chiêu.”
Chiêu Chiêu…
Chiêu Chiêu…
Tôi đang ở nơi mà anh quen thuộc nhất – chiến trường.
Ngày nối ngày, năm nối năm, tôi đã vô số lần nhìn thấy anh.
Tôi nguyện như anh – mãi mãi kiên cường, mãi mãi dịu dàng.
Mang lòng từ bi, kiên cường không khuất. Tôi và vô số đồng đội, mãi ở lại nơi đây.
Sức mạnh của một người, nhỏ bé như những vì sao lẻ loi nơi trời cao.
Nhưng vô số con người, cũng có thể gom lại, nhóm lên ánh lửa vì hòa bình.
Để cho những người vô tội, lạc lõng và tuyệt vọng giữa khói lửa chiến tranh, Có thể được soi rọi dù chỉ một chút hy vọng, một chút ánh sáng.
2
Năm tháng trôi đến những năm 90, rồi bước sang thế kỷ 21.
Tôi không thể tiếp tục ở lại chiến trường, đành trở về nước.
Tôi nhìn vào gương, thấy mái tóc mình đã dần bạc đi.
Năm đó, là năm 2024.
Đất nước sớm đã hưng thịnh, đang bắt đầu chuẩn bị cho lễ duyệt binh năm sau.
Tháng Bảy, phía Nam Thiểm Tây mưa lớn, lại xảy ra một trận lũ lớn.
Cả nước quan tâm theo dõi, rất nhiều người lại nhắc đến trận lũ An Khang năm 1983.
Tôi ngồi trong nhà xem ti vi.
Trên bản tin, phóng viên phỏng vấn một bà lão.
Bà đã từng sống sót qua trận lũ kinh hoàng năm 1983, nghẹn ngào kể lại:
“Lúc đó tôi được một người lính trẻ cứu.
Cậu ấy bất chấp tính mạng, đưa tôi thoát khỏi vùng nước sâu.
Bốn mươi năm rồi, bốn mươi năm trôi qua rồi đấy… Tôi đến giờ vẫn còn nhớ rõ, dưới mắt trái của cậu ấy có một nốt ruồi.
Và sau tai phải, gần cổ, có một vết sẹo—hình như là bớt bẩm sinh.”
“Tôi muốn cảm ơn cậu ấy, thật sự rất muốn cảm ơn cậu ấy.
Bộ đội Giải phóng quân Trung Quốc, là bồ tát sống, là anh hùng cứu thế.”
Bà vừa nói, vừa rơi lệ.
Tôi ngồi sững sờ, lặng lẽ lắng nghe— Người mà bà đang nói đến, chính là người tôi quen thuộc đến mức khắc sâu tận xương tủy.
Bà lão rơi nước mắt, cuối cùng nói:
“Hồi đó, cậu ấy đưa tôi lên bờ, và nói với tôi rằng: ‘Đừng hoảng sợ, đừng sợ hãi.
Thiên tai rồi sẽ qua thôi.
Quốc gia và nhân dân, đều sẽ có một tương lai sáng lạn vô tận.’”
Máy quay chuyển cảnh.
Không còn gì thêm.
Đó là lời nói cuối cùng của Phó Tranh, mà sau bốn mươi năm tôi mới biết được.
Tôi từng nói với anh, ánh trăng rọi qua tán cây, kéo dài mãi về tương lai tươi sáng không cùng tận.
Còn anh lại nói: “Quốc gia và nhân dân, đều sẽ có một tương lai sáng lạn vô tận.”
Ngoài cửa sổ, bóng cây lay động mơ hồ.
Tôi vẫn muốn tin rằng—Anh sẽ quay trở về.
(Hết)