Chương 7 - Lãnh Cung Nguyệt Ảnh

Ta cố tình để lộ cánh tay dính máu, toàn thân run rẩy như phát cuồng:

“Ta cũng khó chịu lắm… có khi cũng nhiễm bệnh rồi… sắp chết mất…”

“Van cầu các ngươi cho ra ngoài một chuyến!”

“Chúng ta nếu có chết, cũng chết ngoài cung! Tuyệt không liên lụy quý nhân trong này!”

“Ôn dịch” – hai chữ ấy, chính là bùa đòi mạng lúc bấy giờ.

Hai thị vệ kia liếc nhìn Niệm An đỏ mặt thở gấp, lại nhìn cánh tay đầy máu của ta, sắc mặt lập tức trắng bệch, thân thể run rẩy, liên tục thoái lui.

“Mau cút! Cút khỏi đây! Đừng gieo vạ cho người khác!”

Một người trong số đó hét lên, thanh âm biến dạng vì sợ hãi.

“Mở cửa! Mau mở cửa cho họ cút đi!”

Một tên thị vệ khác cũng hoảng hốt, sợ bị lây nhiễm.

Cung môn trong cơn hỗn loạn bị hé ra một khe hẹp.

Ta ôm lấy Niệm An, chẳng chút do dự, lập tức lao ra ngoài, vọt thẳng vào sương mù dày đặc buổi sớm mai.

Phía sau lưng, cung môn “ầm” một tiếng đóng sập lại, như thể cắt đứt hai thế giới.

Gió lạnh mang theo sương mù táp thẳng vào mặt, lẫn trong đó là mùi hương hỗn tạp đặc trưng nơi phố thị.

Tim ta đập thình thịch, tưởng chừng muốn nhảy ra khỏi ngực.

Thành công rồi sao?

Cứ thế… trốn ra được rồi ư?

Ta không dám dừng lại, ôm chặt Niệm An, dựa vào trí nhớ mơ hồ, len lỏi vào từng ngõ nhỏ tăm tối, hỗn loạn, hướng về nơi ngược với hoàng thành.

Sương mù trở thành tấm màn che tuyệt hảo.

Mãi đến khi phổi đau như thiêu, hai chân nặng tựa đeo chì, ta mới lảo đảo ngã xuống một góc tường chật chội, đầy rác vụn của ngõ cụt.

Niệm An trong lòng đã bắt đầu hạ sốt do thuốc tan, trở mình không yên.

Ta ôm siết lấy con, há miệng thở dốc, lắng nghe tiếng mõ canh đêm và tiếng chó sủa mơ hồ từ xa vọng lại, trong lòng là một nỗi choáng váng xen lẫn nhẹ nhõm — là cảm giác còn sống sau cơn tử nạn.

Dẫu phía trước mờ mịt.

Dẫu trong tay không còn nổi một đồng xu (nửa xâu tiền kia đã đánh rơi trong lúc hỗn loạn), nhưng ít nhất…

Chúng ta đã thoát rồi!

Đã rời khỏi ngục giam dát vàng kia!

Những ngày sau đó, mới thực sự là sinh tồn nơi ranh giới tử sinh.

Kinh thành vì dịch bệnh mà tiêu điều lạnh lẽo, phố phường đóng cửa, người đi thưa thớt.

Ta dắt theo Niệm An, như hai con chuột nhà không cửa nẻo, lẩn mình trong từng góc tối của nhân gian.

Ta từng làm ăn mày, chen chúc cùng người vô gia cư nơi miếu đổ, vì nửa cái bánh thiu mà đánh nhau tơi bời.

Ta từng giặt thuê quần áo cho người, giữa tiết trời đại hàn, đôi tay nứt nẻ đến cứng như củ cải chỉ mong đổi vài đồng mua cho Niệm An chiếc bánh nướng nóng hổi.

Lúc cùng cực nhất, ta còn lén tới gần bãi tha ma, nhặt nhạnh y phục bỏ đi còn lành lặn, đem về giặt sạch khâu lại mà mặc.

Ta đổi tên là “Thẩm Tố”.

Tố y, tố tâm, chẳng mong gì hơn hai chữ bình an.

Có lẽ là trời xanh rủ lòng thương.

Cũng có thể là kiên nhẫn nhẫn nhục mài giũa nên dẻo dai.

Một lần tình cờ, khi ta đang quét dọn ở một hiệu thuốc nhỏ, bị lão đại phu nhận ra ta hiểu chút thảo dược.

Ấy là nhờ năm xưa A Kinh truyền lại vài phương thuốc dân gian trong lãnh cung.

Lão động lòng trắc ẩn, giữ mẹ con ta lại hậu viện làm tạp dịch, bao ăn ở, thỉnh thoảng còn dạy ta phân biệt dược liệu.

Ta như người chết đuối vớ được cọc.

Vì Niệm An, ta không thể gục ngã — càng không thể sống dật dờ.

Ba năm trôi qua trong lao nhọc và dè chừng từng hơi thở.

Dịch bệnh sớm đã lùi xa.

Ta cùng Niệm An an ổn sống tại một trấn nhỏ cách kinh thành mấy trăm dặm – gọi là Thanh Thủy trấn.

Bằng số tiền ít ỏi tích góp trong ba năm làm lụng kham khổ, lại được lão đại phu giúp thêm một chút, ta thuê được một căn tiệm nhỏ nằm nơi cuối trấn, phía sau có vườn con.

Ta dựng biển hiệu đơn sơ – gọi là “Tố Tâm Đường”.

Chủ yếu bán dược thảo thông dụng, cũng giúp người xem bệnh vặt như cảm mạo nhức đầu.

Y thuật chẳng tinh thâm, nhưng giá cả phải chăng, đối nhân xử thế chân thành.

Với nhà nghèo, ta thường bán nửa, cho nửa, thậm chí cho chịu.

Dần dà, cái tên “Thẩm nương tử Tố Tâm Đường”, cùng đứa con trai lanh lợi thông minh, cũng đã đứng vững nơi Thanh Thủy trấn.

Niệm An đã sáu tuổi, lanh lẹ hiểu chuyện, là ánh sáng duy nhất giữa cuộc đời đầy u tối của ta.

Ta ngỡ, kiếp này sẽ cứ thế mà qua.

Giữ lấy căn tiệm nhỏ, giữ lấy Niệm An, trải qua quãng đời còn lại yên ả.

Những chuyện xưa như đã là mộng kiếp trước.

Cho đến chiều hôm ấy.

Ánh tà dương dát lên Tố Tâm Đường một tầng sáng vàng ấm.

Ta vừa tiễn xong một bà lão đến xem cảm hàn, đang chuẩn bị đóng cửa tiệm.

Niệm An đang nằm sấp bên bàn, tay cầm que gỗ ta vót, nghiêm túc viết vẽ vào khay cát.

Dạo này con thích học chữ.

“Nương thân, chữ ‘An’ con viết có đúng không?”

Con ngẩng đầu, mặt mày rạng rỡ.

Ta vừa cúi xuống xem.

Ngoài cửa, ánh sáng chợt tối sầm.