Chương 3 - Hôn Nhân Đánh Cược
Ta đáp lại nàng ta bằng một cái bạt tai mạnh mẽ.
Sau đó, ta nắm chặt tóc nàng ta, ra sức đánh tới tấp.
“Một cái này, là trả lại chuyện ngươi kéo ta xuống nước.”
“Một cái này, là trả lại chuyện ngươi vu oan giá họa cho ta.”
Trầm Hoài Châu định lao vào kéo ta ra.
Ta thẳng tay tát chàng một bạt tai.
“Và cái này, là vì ta đã uổng phí năm năm cuộc đời!”
Dù có cá chết lưới rách, ta cũng phải khiến tấm lưới này rách thêm triệt để.
“Lâm Uyển, đủ rồi!”
Một lực mạnh mẽ truyền đến, thân thể vốn đã suy yếu sau khi rơi xuống nước bị Trầm Hoài Châu hung hăng đẩy ngã xuống đất.
Cảm giác bỏng rát lan ra từ khuỷu tay và đầu gối, đủ để thấy chàng đã dùng bao nhiêu sức.
Ta siết chặt nắm tay, phát hiện trong tay mình vẫn còn vương một lọn tóc của Lâm Linh Lăng.
Sắc mặt Trầm Hoài Châu u ám, trên mặt còn hằn rõ dấu bàn tay đỏ rực.
Ánh mắt chàng nhìn ta đã không còn xa lạ, mà là sự chán ghét.
“Lâm Uyển, nàng điên rồi sao?!”
Chàng ôm chặt Lâm Linh Lăng đang ôm mặt khóc thút thít, giọng điệu lạnh lùng vô cùng.
Trước khi phất tay áo bỏ đi, chàng buông lại một câu đầy thất vọng.
“A Uyển, nàng khiến ta quá thất vọng rồi.”
9
Ta bệnh nặng một trận.
Cơn sốt cao kéo dài suốt đêm không dứt, ác mộng triền miên quấn lấy ta.
Trong cơn mê man, ta thoáng thấy Trầm Hoài Châu năm mười bảy tuổi.
Chàng mặc trường sam nguyệt sắc, đứng dưới rặng trúc cạnh cổng, mỉm cười nhìn ta.
Đôi mắt chàng khi ấy, tràn đầy bóng dáng ta trong đó.
Nhưng khoảnh khắc tiếp theo, nụ cười ấy dần hóa thành bi thương.
Mười bảy tuổi, chàng đỏ mắt, thì thào:
“A Uyển, xin lỗi… Xin lỗi… Đừng tha thứ cho ta…”
Chàng đang nói với ta, rằng đừng bao giờ tha thứ cho Trầm Hoài Châu năm hai mươi bốn tuổi – kẻ đã làm tổn thương ta.
Ta khẽ đáp:
“Được.”
10
Ta hôn mê tròn ba ngày mới tỉnh lại.
Phù Cừ hai mắt sưng đỏ, vừa khóc vừa cười vì vui mừng.
Ta nhìn vào đôi mắt nàng, thấy rõ bóng dáng chính mình phản chiếu bên trong.
Gò má hóp lại, hình hài tiều tụy đến mức không còn nhận ra, giống như một u hồn dật dờ.
Phù Cừ nói, trong mấy ngày ta mê man, Trầm Hoài Châu có đến một lần.
Nghe tin ta bệnh nặng, chàng do dự đứng trước cửa hồi lâu, nhưng cuối cùng vẫn không bước vào.
Chàng chỉ để lại một câu:
“Đây là quả báo mà nàng đáng phải nhận.”
Chàng nói, hôn lễ sẽ được cử hành ba ngày sau.
Vì hành vi chanh chua, ghen tuông hôm đó, Trầm gia không thể để ta làm chính thất nữa.
Chàng sẽ cưới Lâm Linh Lăng làm chính thê, còn ta… sẽ là quý thiếp.
Lúc trước, ta không chịu quỳ gối trước Lâm Linh Lăng.
Chàng nói, đợi ta vào cửa rồi, sẽ để ta ngày ngày quỳ xuống, bù đắp lại cho đủ.
Phù Cừ giận đến đỏ mặt, nghiến răng nói:
“Tiểu thư, sao người ta có thể thay đổi nhanh đến thế? Trước đây, dù người chỉ bị trầy xước một chút, công tử cũng sốt sắng như thể trời sập, lo lắng đến mức muốn mời cả ngự y trong cung. Giờ người bệnh đến thế này, chàng ta lại nói đó là quả báo?!”
Đôi mắt nhỏ của nàng đỏ hoe, tràn đầy oan ức và khó hiểu.
Ta nhẹ nhàng vuốt ve mái tóc nàng, dịu giọng đáp:
“Ngốc ạ, lòng người vốn dĩ dễ đổi thay.”
Tấm chân tình mãi không đổi thay của một thiếu niên, so với trăng trên trời, nước trong gương, càng hiếm hoi gấp bội.
Có lẽ vì Lâm Linh Lăng tuổi tác đã không còn nhỏ, Lâm gia sốt ruột muốn gả nàng đi, nên hôn sự này được quyết định vô cùng vội vã.
Thậm chí, Lâm gia còn chấp nhận việc tổ chức đại hôn cùng ngày đón dâu một chính một thiếp – một chuyện trái với lễ giáo, nhưng lại cực kỳ sỉ nhục ta.
Phù Cừ lén đi dò hỏi, mới biết ý định để ta cùng ngày vào cửa là do Lâm Linh Lăng đề xuất.
Rõ ràng là muốn ta phải chịu nhục đến tận cùng.
Tiếc là, ba ngày sau, thuyền xuôi Nam của ta cũng vừa vặn khởi hành.
Ta và Phù Cừ ngày đêm thu xếp, đem toàn bộ của hồi môn đổi thành ngân phiếu, chỉ giữ lại vài món quý giá dễ mang theo làm kỷ niệm.
Tối trước ngày rời đi, Lâm Linh Lăng sai người mang đến cho ta một bộ hỉ phục màu đào.
Tiểu nha hoàn giọng chói tai, ngẩng cao đầu, bĩu môi đánh giá ta từ trên xuống dưới.
“Đây là hỉ phục của Lâm di nương. Đại tiểu thư nhà ta đặc biệt sai ta mang đến. Còn nói, cửa hông nhỏ hẹp, kiệu không vào được, ngày mai mong di nương tự mình đi bộ vào cửa.”
Nha hoàn cất lời với vẻ đắc ý, miệng vừa mở đã một tiếng “di nương” gọi trước.
Ta chỉ liếc mắt nhìn nàng.
Phù Cừ lập tức hiểu ý, xách thùng nước tiểu đã để ba ngày trong phòng hạ nhân, dội thẳng lên đầu nàng ta.
Sau đó, nàng cầm chổi lớn đánh cho nha hoàn kia chạy cong đuôi, miệng còn vừa chạy vừa chửi.
Nhìn bóng dáng chật vật bỏ chạy của nàng ta, ta và Phù Cừ vỗ tay cười lớn.
11
Hôn lễ giữa Lâm gia và Trầm gia vô cùng rình rang, tráng lệ.
Chỉ tiếc, lễ thành thân chưa hoàn tất, khi đôi tân nhân vừa quỳ xuống định bái đường, thì đột nhiên có một gia nhân chạy xộc vào, lớn tiếng hô hoán:
“Vị quý thiếp sắp vào cửa hôm nay, cũng chính là nguyên thất phu nhân của Trầm gia, đã không thấy tăm hơi đâu nữa!”
Sắc mặt tân lang lập tức đại biến.
Không màng đến sự hiện diện của quan khách hay trưởng bối hai nhà, chàng quăng luôn tân nương sang một bên, vội vàng lên ngựa đuổi theo.
Đại hôn thành một trò cười.
Chuyện này nhanh chóng trở thành giai thoại chấn động kinh thành.
Các quán trà, tửu lâu đều râm ran bàn tán. Tin đồn kéo dài suốt hai ba tháng chưa lắng xuống.
Mãi đến khi thiên hạ dần quên đi câu chuyện chê cười ấy, ta đã cùng Phù Cừ đến Giang Nam.
Được bằng hữu chí cốt – Văn Tố Giang giúp đỡ, ta ổn định cuộc sống nơi đây.
Văn Tố Giang lập một nữ học ở Giang Nam.
Học trò chỉ thu nhận con em nhà nghèo hoặc trẻ mồ côi, chỉ cần muốn đến học, đều có thể nhập môn miễn phí.
Nàng dạy các cô bé học chữ.
Dựa theo tài năng và sở thích từng người, nàng tìm thầy dạy may vá, làm son phấn, thậm chí cả nghề ủ rượu, làm bánh.
Giúp các nàng có một kỹ năng để tự lập sinh sống.
Nữ học không thiếu học trò, nhưng lại thiếu người dạy.
Văn Tố Giang không để ta có quá nhiều thời gian làm quen.
Vừa đến nơi, ta liền đảm nhiệm danh phận nữ phu tử, mỗi ngày không chỉ dạy chữ cho các học trò, mà còn giúp quản lý đủ loại việc vặt.
Ngay cả Phù Cừ cũng được phân công dạy thêu cùng hai tỷ tỷ khác, bận rộn không ngơi tay.
Ban đầu, ta đã quen với lối sống nhàn hạ trong Trầm gia, bỗng chốc bị cuốn vào công việc, cơ thể có chút không chịu nổi.
Nhưng dần dần, ta lại tìm được niềm vui và cảm giác thỏa mãn từ sự bận rộn ấy.
Năm năm hoang phế trong hậu viện Trầm phủ.
Mãi đến tận bây giờ, ta mới nhận ra, trời đất rộng lớn này, nữ tử cũng có thể tự mình vẫy vùng.
Đặc biệt là khi nhìn vào đôi mắt sáng trong của những đứa trẻ, trong lòng ta lại dâng lên một cảm giác khó diễn tả thành lời.
Con người sống một đời, không thể ra đi mà không để lại chút gì.
Như Văn Tố Giang, dành tâm huyết tạo ra một chốn dung thân cho vô số nữ tử yếu đuối không nơi nương tựa, dạy họ một con đường tự lập, để không phí hoài mấy mươi năm ngắn ngủi của đời người.
12
Ta bận rộn suốt ngày, chân không chạm đất.
Chuyện cũ ở kinh thành, ta hiếm khi còn nghĩ đến.
Những ký ức về Trầm Hoài Châu dường như đã thuộc về kiếp trước, xa vời không thực.
Vậy nên, ngày hôm đó, giữa tiết học, khi có người gọi tên ta – giọng nói vừa run rẩy vừa chất chứa xúc động:
“A Uyển!”
Ta thoáng sững người.
Nhưng ta vẫn bình thản dạy xong bài học cho đám trẻ, không để tâm đến người đang đứng chờ ngoài cửa.
Hết tiết, ta thong thả bước ra, đưa mắt nhìn kẻ đứng nơi góc khuất trong phòng khách.
Trầm Hoài Châu đã gầy đi rất nhiều.
Gương mặt vốn tuấn tú giờ đây lại xanh xao tiều tụy, trên cằm còn lún phún râu xanh trông chẳng còn đẹp đẽ gì nữa.
Vừa vào phòng, chàng đã không chờ thêm, vươn tay muốn ôm ta vào lòng.
Ta nhẹ nhàng lách mình tránh đi.
“Trầm công tử, xin giữ lễ.”
Ánh mắt chàng trầm xuống, lóe lên cơn giận bị đè nén.
“A Uyển, nàng còn muốn giận dỗi đến khi nào?”
Ta bật cười, cảm thấy tư duy của chàng thực kỳ lạ.
Đến nước này rồi, chàng vẫn nghĩ rằng ta chỉ đang làm mình làm mẩy mà thôi.
“Nữ học còn nhiều việc, không tiện tiếp đón Trầm công tử. Xin mời về.”
Ta xoay người muốn đi, nhưng tay áo đã bị chàng giữ chặt.
Trầm Hoài Châu nhìn ta, giọng nói mang theo bi thương.
“Nhiều ngày qua ta ăn không ngon, ngủ không yên, đã tìm mọi cách hỏi thăm tung tích của nàng. Mẫu thân ta vì chuyện này đã phạt ta dùng gia pháp, trên lưng ta vẫn còn vết thương dài hơn nửa thước!”
“Ta không thể không có nàng, A Uyển…”
Nhưng kẻ đẩy ta vào dòng nước lạnh lẽo kia, cũng chính là chàng.
Ta lạnh nhạt nhìn chàng, cất giọng nhẹ bẫng:
“Trầm Hoài Châu, trên hòa ly thư là chữ ký của chính chàng, từ lâu chúng ta đã không còn quan hệ gì nữa.”
Chàng bỗng nhiên mất kiên nhẫn, cắn răng thấp giọng gằn từng chữ:
“Ta đã nói đó chỉ là kế tạm thời!”
Chàng nhíu mày, ánh mắt kiên định nhìn ta.
“A Uyển, nàng giận ta cưới Linh Lăng, hay giận ta muốn nàng làm thiếp? Hai chuyện đó ta đều có thể bỏ! Ta sẽ không cưới nàng ta, cũng không ép nàng làm thiếp. Sau này ta cũng sẽ rời xa những kẻ đó, không bao giờ làm điều gì khiến nàng đau lòng nữa. Nàng theo ta về đi, nàng vẫn là thê tử duy nhất của ta, được không?”
Chàng cẩn thận từng chút, sợ ta hoảng sợ mà trốn tránh chàng.
Ta rũ mắt, từng chút từng chút rút ống tay áo khỏi tay chàng.
“Cho dù có ghép lại chiếc gương đã vỡ, trên đó vẫn còn vết nứt.”
Ta nhìn thẳng vào chàng, giọng nói bình thản:
“Trầm Hoài Châu, chàng quên rồi sao? Ta trước nay chưa từng thích dùng đồ cũ.”