Chương 9 - Chàng Làm Quan, Thiếp Trở Thành Dĩ Vãng

Công chúa trên cao nổi giận:

“Phụ hoàng, người xem hắn kìa!”

Hoàng đế hừ lạnh:

“Nói nghe thật hay, nhưng chẳng qua lấy cớ để tránh cưới. Ngươi thà chọn hoa cỏ tầm thường, lại xem nhẹ cành vàng lá ngọc, trong mắt ngươi có còn hoàng gia, có còn trẫm?”

Phu quân ta thưa:

“Thần không dám.”

Hoàng đế nói:

“Ngươi đã không biết điều, trẫm sẽ bãi chức của ngươi, cởi mũ ô sa, đày ngươi đi sung quân.”

Lòng ta bỗng chấn động. Còn phu quân ta lại bình tĩnh nói:

“Thần tuân chỉ.”

Hoàng đế tức giận:

“Ngươi!”

Hoàng đế nén giận quay sang ta:

“Lý thị, trẫm để ngươi chọn: hoặc Cố Lân đi sung quân, hoặc ngươi tự xin rời nhà.”

Ta nhìn phu quân, chàng quỳ thẳng lưng, thần sắc lạnh lùng. Chàng như cây tùng nhỏ bên vách đá, làm lòng ta rung động, cũng làm ta thương xót.

Ta nói:

“Tâu hoàng thượng, phu quân thần không thể đi sung quân.”

Phu quân ngoảnh lại nhìn ta, ánh mắt lo lắng. Ta mỉm cười với chàng, quay sang hoàng đế nói:

“Phu quân của thần sinh ra không có mẫu thân, mười tuổi thì phụ thân cũng qua đời. Từ đó, chàng cô độc vô thân, nương nhờ thư viện.

Mười bốn tuổi chàng vang danh, mười chín tuổi đỗ giải Nguyên, hai mươi tuổi đề danh bảng vàng, đỗ Thám Hoa lang, hai mươi mốt tuổi làm quan đến thành Dương Châu này.

Chàng tài hoa đầy mình, ôm chí báo quốc, trên kính vua, dưới thương dân, dậy sớm thức khuya không biết mệt mỏi, ngay cả lúc các con chào đời cũng không kịp về.

Thần không biết chàng có phải quan tốt hay không, nhưng thần nghĩ làm quan nên là như thế. Một người như vậy, thần không muốn để chàng đi sung quân, không muốn làm chậm trễ tiền đồ của chàng.”

Hoàng đế nói:

“Ngươi đã không muốn làm chậm tiền đồ của hắn, vậy ngươi hãy tự xin rời nhà.”

Ta đáp:

“Thần không muốn rời nhà. Thần và phu quân ân ái, chưa phạm thất xuất, lại có hai hài tử, tên là Nguyên Phương và Quý Phương. Con thơ còn trong tã lót, làm mẫu thân sao có thể rời nhà?

Thần không có lỗi, nếu phải rời nhà, sẽ đáng thương cho con của thần, cô đơn cho phu quân của thần, và làm lạnh lòng các hiền phụ trên thiên hạ.”

Hoàng đế cười lạnh:

“Thật là một hiền phụ giảo hoạt. Ngươi không muốn hắn đi sung quân, cũng không muốn rời nhà, vậy trẫm ban cho ngươi một chén rượu độc, sau khi chết sẽ cho ngươi vinh quang, thế nào?”

Toàn thân ta lạnh toát.

Ta thấy phu quân ta quỳ rạp xuống đất, khẩn cầu hoàng đế tha mạng.

Chén rượu độc được đưa đến trước mặt ta.

Ta nghĩ đi nghĩ lại, đưa tay nhận lấy chén rượu, rồi nói với hoàng đế:

“Thần không cần vinh quang sau khi chết, thần chỉ muốn nói vài lời với phu quân.”

Hoàng đế bảo:

“Ngươi nói đi.”

Ta nhìn phu quân, thấy chàng đỏ mắt, rưng rưng nước mắt, không ngừng lắc đầu. Ta nhẹ giọng nói với chàng:

“Phu quân, được làm phu thê với chàng, thật là phúc phận của thiếp. Người ta nói hồng nhan họa thủy, thiếp không ngờ, chàng cũng là một họa thủy. Chàng hại thiếp mất cả tâm, lại hại thiếp mất cả mạng. Thôi, không sao cả, chỉ trách mỹ sắc hại người.”

Không biết ai đó khẽ ho một tiếng. Ta không bận tâm, tiếp tục nói với phu quân:

“Nguyên Phương nghịch ngợm, tính giống chàng. Quý Phương còn nhỏ, tính cũng giống chàng. Một nhà chỉ có thiếp là tính tốt, chàng sau này phải thu bớt tính khí, cũng phải để ý đến tính cách của các con. Đừng quá cứng cỏi, dễ chịu thiệt thòi, thiếp không yên tâm.”

Chàng im lặng rơi lệ, không nói lời nào. Ta lại nói tiếp:

“Thiếp đã chuẩn bị sẵn quần áo bốn mùa cho chàng, áo cho con mặc trong ba năm tới, đều cất trong hòm, không biết để ở đâu thì hỏi Tiểu Thúy.

Chàng ăn uống không đúng giờ, bận rộn quên cả đêm, có khi đọc sách quên cả thời gian, đều phải để thiếp nhắc nhở. Sau này không còn thiếp nhắc nữa, chàng phải tự nhớ lấy.

Phu quân, chàng bảo trọng!”

Ta thở dài một tiếng, nhìn chàng thêm vài lần, ngửa cổ nhắm mắt, uống cạn chén rượu trong tay.

10

Hoàng đế khẽ ho một tiếng, nói:

“Được rồi, Cố khanh, coi như ngươi thắng.”

Ta ngơ ngác nhìn phu quân, nước mắt chàng vẫn đang chảy.

Công chúa vặn vẹo người, giận dữ nói:

“Phụ hoàng, con không chịu! Con chỉ muốn lấy Cố Lân!”

Hoàng đế mất kiên nhẫn:

“Đủ rồi! Con còn làm loạn nữa, danh tiếng hoàng đế hồ đồ của trẫm coi như vững chắc!”

Công chúa nước mắt lưng tròng, căm hận nhìn ta, lại si mê nhìn phu quân ta.

Hoàng đế quay sang phu quân, nói:

“Cố khanh, đỡ phu nhân của ngươi đứng dậy.”

Phu quân đỡ ta đứng lên. Hoàng đế nhìn ta, mỉm cười nói:

“Cố phu nhân, làm ngươi kinh sợ rồi. Ngươi đã không cần vinh quang sau khi chết, trẫm ban cho ngươi một đạo cáo mệnh, xem như thay công chúa chuộc lỗi.”

Phu quân ta chắp tay thưa:

“Thần không dám.”

Ta cũng chắp tay thưa:

“Thần phụ không dám.”

Hoàng đế cười, vui vẻ nói với phu quân:

“Không sao. Phu nhân của ngươi hiền đức, xứng đáng được ban cáo mệnh.”

Ta mơ hồ theo phu quân rời khỏi thuyền. Ta tưởng mình mất mạng, nào ngờ lại được phong cáo mệnh.

Phu quân nắm chặt tay ta suốt đường đi, nước mắt chưa khô, ánh mắt đầy dịu dàng.

Ta hỏi:

“Chuyện này là thế nào?”

Chàng đáp:

“Đào nhi, ta có lỗi với nàng.”

Chàng kể, công chúa ba năm không chọn phò mã, chỉ nhớ mãi Cố Lân. Hoàng đế bị nàng ta ép buộc, đành trước mặt bá quan đặt ra một canh bạc.

Nếu ta uống chén “rượu độc,” công chúa từ bỏ ý định; nếu ta không uống, chàng phải bỏ Lý Bích Đào, lấy công chúa, làm phò mã.

Chàng nói:

“Ta tin nàng, cắn răng đồng ý với cuộc cá cược. Dẫu biết là giả, ta vẫn lo, vẫn sợ.”

Cái tên hoàng đế khốn kiếp này.

Ta cảm thấy chân mềm nhũn, người choáng váng, thoáng chút sợ hãi.

Chàng lập tức bế ta lên. Ta ôm cổ chàng, nghiến răng nói:

“Cố Lân, chàng đã bao lâu chưa quỳ trên ván giặt đồ?”

Chàng cười, đáp:

“Quỳ, về đến nhà liền quỳ.”

Hoàng đế rời khỏi Dương Châu, ta cùng phu quân dẫn Nguyên Phương và Quý Phương đi du hồ.

Thuyền lướt nhẹ trong đầm sen, bỗng có một chiếc thuyền khác tiến lại gần. Có người từ xa gọi:

“Cố đại nhân.”

Phu quân ta ngẩng đầu nhìn, đứng dậy nói:

“Gặp qua Trung Đường đại nhân.”

Tim ta khẽ run, cũng đứng dậy theo.

Trương Trung Đường đứng trên đầu thuyền, nhìn phu quân ta, rồi nhìn sang ta, lại nhìn Quý Phương trong tay ta, rồi nhìn Nguyên Phương bên chân ta.

Phu quân chỉ vào ta, nói:

“Đây là hiền thê.”

Nguyên Phương chỉ vào mũi mình, nói:

“Con là khuyển tử.”

Trương Trung Đường bật cười, nói con ngoan, rồi nhìn sang ta.

Ta hành lễ:

“Gặp qua Trung Đường đại nhân.”

Ông nhìn ta không tránh né, càng nhìn càng buồn bã. Ông nói:

“Cố đại nhân, lão phu có chuyện muốn hỏi phu nhân của ngài, có thể mời phu nhân qua thuyền nói chuyện không?”

Phu quân ta nhíu mày:

“Việc này…”

Ta cản chàng, nói:

“Có thể.”

Ta giao Quý Phương cho phu quân, một mình sang thuyền của Trung Đường đại nhân.

Ông hỏi ta:

“Mạo muội hỏi, phu nhân sinh thần vào ngày nào?”

Ta đáp:

“Ngày mùng bảy tháng tám năm Canh Thìn.”

Mẫu thân từng nói:

“Đấng trượng nghĩa phần nhiều là phường đồ tể, kẻ bạc tình thường là đám đọc sách.”

Ta lặng lẽ nhìn ông.

Ông lại hỏi:

“Nhà phu nhân còn ai?”

Ta đáp:

“Có phu quân ta, còn có hai hài tử.”

Ông nói:

“Ta hỏi, nhà bên ngoại của phu nhân còn ai?”

Ta nhàn nhạt đáp:

“Mẫu thân ta họ Lý, đã qua đời.”

Ông sững sờ, hỏi:

“Dám hỏi lệnh đường tên gọi là gì?”

Ta chậm rãi đáp:

“Mẫu thân ta họ Lý, tên Thu Sương, người đất Mai Châu, biết bơi lội, giỏi đánh cá, tính tình mạnh mẽ, dung mạo xinh đẹp, mất khi ba mươi bảy tuổi.”

Mắt ông ngấn lệ, môi run rẩy. Ông nói:

“…Con ơi, ta là…”

Ta đáp ngay:

“Sinh mà không nuôi thì gọi gì là phụ mẫu? Đại nhân còn việc gì nữa không?”

Ông chỉ rơi lệ, ta đứng dậy rời đi. Ông lặng lẽ theo ta lên đầu thuyền, nhìn ta quay lại thuyền mình, không nỡ rời mắt khỏi Nguyên Phương và Quý Phương.

Ông chắp tay chào phu quân ta.

Phu quân ta hoàn lễ, chúng ta liền rời thuyền. Phu quân hỏi ta:

“Ông ta nói gì với nàng?”

Ta đáp:

“Ông hỏi nhà thiếp còn ai, thiếp bảo mình có phu quân, còn có hai hài tử.”

Chàng mỉm cười nói:

“Ừm. Nàng có phu quân, còn có hai hài tử, không cần thêm ai nữa.”

Ta mím môi cười không ngớt. Chàng hỏi:

“Cười gì mà cười?”

Ta đáp:

“Sao lại không cần thêm ai?”

Chàng nghiêng đầu:

“Hửm?”

Ta nói:

“Thiếp nói mình có phu quân, còn có hai hài tử, quên không nói với ông ta, trong bụng thiếp còn một đứa nữa.”

Chàng ngẩn ra, sững sờ, bỗng nhiên vui mừng như điên:

“Ta có con gái rồi!”

Ta xoa bụng, lườm chàng:

“Mới thế này, sao biết là con gái? Có thể là Niệm Niệm, cũng có thể lại là một Phương nào đó.”

Chàng chẳng buồn để ý, ôm mặt ta mà hôn:

“Đào nhi, ta có con gái rồi!”

Ta thầm chê, cái gì mà Thám Hoa lang, nhìn dáng vẻ ngốc nghếch của chàng mà xem.

(Hết)