Chương 2 - Ánh Trăng Năm Ấy
3.
Năm mười sáu tuổi, tôi học lớp 11, còn Tống Thanh Yến đã lên năm ba.
Anh trai tôi vẫn chưa về, người chăm sóc tôi vẫn là anh ấy.
Tôi có chút may mắn.
Trường học tổ chức dã ngoại, bất ngờ cho phép học sinh dẫn người thân theo.
Tôi sững sờ.
Cả lớp như một nồi nước sôi sùng sục, ai nấy đều bàn luận sôi nổi.
“Tớ muốn đi với mẹ, mẹ tớ xinh lắm luôn!”
Mẹ tôi cũng rất xinh đẹp.
“Vậy tớ đi với ba! Ba tớ đối xử với tớ tốt cực, hai chúng tớ như bạn thân ấy.”
Ba tôi cũng rất tốt.
“Tớ không muốn dẫn bố mẹ đi, tớ sẽ dắt anh trai tớ, anh ấy ngầu lắm, đến lúc đó chắc chắn sẽ khiến các cậu mê mẩn luôn!”
Anh trai tôi cũng rất đẹp trai.
“Ninh Uyển, cậu sẽ đi với ai?”
Câu hỏi đột nhiên nhắm vào tôi, như một chiếc máy bay giấy bay ngang trời, cắm phập vào tim tôi, đau nhẹ nhưng khó chịu.
Tôi không biết phải trả lời thế nào.
Ba mẹ tôi ở nước ngoài, ba năm năm chưa chắc đã về một lần.
Nếu không có ảnh chụp, có khi tôi cũng không nhớ rõ mặt họ.
Anh trai tôi cũng đang du học, chẳng lẽ chỉ vì một chuyến dã ngoại mà bắt anh ấy về?
Tôi lắc đầu, né tránh chủ đề này.
Lúc tan học, tôi định mua một cây xúc xích ở cổng trường nhưng đã bán hết.
Thế là tôi chậm rãi đi bộ về nhà.
Khi mở cửa mới phát hiện chìa khóa đã bị mất.
Tôi cúi đầu, bướng bỉnh lục tung trong cặp sách tìm chìa khóa.
Tìm mãi tìm mãi, mắt tôi bỗng dưng mờ đi, rồi nước mắt bắt đầu rơi xuống sách vở, tạo thành từng vết loang lổ.
Tôi bật khóc nức nở.
Cảm xúc như vậy, thật kỳ lạ, đến chính tôi cũng không rõ nguyên do.
“Uyển Uyển?”
Tống Thanh Yến ngẩn người, sau đó bước đến bên tôi, ngồi xổm xuống: “Sao lại khóc đến mức này? Có chuyện gì vậy?”
Tôi cố sức lau nước mắt: “Chìa khóa mất rồi.”
“Anh à, chìa khóa của em bị mất rồi, em tìm không thấy nữa.”
Nhưng nước mắt vẫn không ngừng rơi.
Tôi tìm không thấy dấu vết yêu thương của ba mẹ, không tìm thấy bóng dáng của anh trai.
Xúc xích cũng không kịp mua, chìa khóa lại còn đánh mất.
Tống Thanh Yến thở dài, lấy khăn giấy từ túi ra, nhẹ nhàng lau nước mắt cho tôi.
“Anh có chìa đây, không sao đâu. Lát nữa đi làm chìa khóa mới, chọn móc khóa mà Uyển Uyển thích nhé, được không?”
Tôi gật đầu.
Anh ấy lau khô nước mắt cho tôi, đứng dậy mở cửa: “Sau này không được lấy tay dụi mắt nữa, tay có vi khuẩn, không tốt cho mắt đâu, biết chưa?”
Tôi lại gật đầu.
Anh ấy xoa đầu tôi: “Vào nhà đi, hôm nay muốn ăn gì?”
Tôi nói ăn gì cũng được.
Anh ấy cười: “Vậy để anh quyết định nhé.”
Lúc bưng cơm lên bàn, anh ấy chợt hỏi: “Trường em có phải sắp tổ chức dã ngoại với phụ huynh không?”
Tôi ngẩn ra.
Anh ấy nói tiếp: “Anh có một đứa em họ học trường em, gần đây cũng muốn đi chơi, có thể đi cùng Uyển Uyển không?”
Tôi cúi đầu ăn cơm, sợ mở miệng sẽ nghẹn ngào.
Vậy nên tôi chỉ gật đầu.
Tống Thanh Yến tựa vào ghế: “Ăn từ từ, cảm ơn Uyển Uyển nhé.”
Là tôi phải cảm ơn anh mới đúng.
Là tôi phải cảm ơn anh, anh à.
4.
Hôm đi dã ngoại, Tống Thanh Yến ăn mặc rất đẹp. Thực ra cũng không phải là trang phục gì đặc biệt, chỉ đơn giản là một chiếc sơ mi trắng và quần âu đen. Có lẽ vì trời quá nắng, anh ấy đội một chiếc mũ lưỡi trai màu đen.
Hấp dẫn không ít ánh mắt của các bạn nữ.
“Ninh Uyển, đây là anh trai cậu à? Đẹp trai quá đi mất!”
Tống Thanh Yến đặt tay lên vai tôi, mỉm cười dịu dàng: “Chào em.”
Bạn học cười cười, ríu rít kể mấy chuyện thú vị ở trường.
Tống Thanh Yến chưa từng tỏ vẻ mất kiên nhẫn, anh ấy lắng nghe bạn bè tôi kể về cuộc sống nhạt nhẽo ở trường, trông có vẻ rất hứng thú.
“Anh à, nghe mấy chuyện này không thấy chán sao?”
Anh ấy lắc đầu, vặn nắp chai nước khoáng giúp tôi: “Rất thú vị.”
“Được học tập, ăn uống và cùng nhau than vãn với những người bạn tốt, cuộc sống như vậy rất tuyệt vời đấy, Uyển Uyển. Sau này khi nhớ lại, em sẽ thấy nó thật đẹp.”
“Tại sao vậy?”
Anh ấy cười: “Vì đây chính là thanh xuân mà.”
Thanh xuân không thể quay trở lại.
Thanh xuân của con người dừng lại ở những năm tháng trung học.
Trong quãng thanh xuân của tôi, Tống Thanh Yến chính là nét vẽ đậm nhất.
Địa điểm dã ngoại là bãi biển.
Chúng tôi đi dọc theo bờ biển thật lâu, cuối cùng anh ấy đưa tôi về nhà.
“Buổi tối muốn ăn gì? Anh nấu cho em nhé?”
Tôi lắc đầu, không muốn anh ấy lại vào bếp nấu cơm: “Anh à, chúng ta ra ngoài ăn đi, em mời anh ăn đồ nướng.”
Tống Thanh Yến không từ chối.
Buổi tối mùa hè cuối cùng cũng có chút không khí mát mẻ. Anh ấy đội chiếc mũ lưỡi trai lên đầu tôi, nở nụ cười trong trẻo.
Tôi nhìn thấy trong mắt anh, hình ảnh phản chiếu của một tôi nhỏ bé.
“Anh à, sao hôm nay trăng tròn thế?”
Anh ngẩng đầu lên nhìn theo tôi: “Vì hôm nay là ngày mười sáu.”
Mười sáu âm lịch.
Hồi ông bà nội còn sống, họ thường bế tôi ngồi trong sân ngắm trăng, luôn bảo rằng “trăng mười lăm, mười sáu tròn đầy nhất.”
Tôi mỉm cười, quay sang nhìn anh: “Giống như một chiếc đĩa ngọc vậy.”
Đĩa ngọc trắng.
Anh ấy xoa đầu tôi: “Về nhà thôi.”
Trong lớp bắt đầu thịnh hành phong trào gấp hạc giấy. Người ta bảo rằng, nếu gấp đủ một nghìn con hạc rồi tặng cho người mình thích, điều ước sẽ trở thành sự thật.
Chẳng biết câu chuyện ấy bắt nguồn từ đâu.
Nhưng tôi đã mua rất nhiều giấy màu.
Mỗi đêm, hoặc lúc nào thấy mệt, tôi lại lấy ra một tờ, viết lên đó một câu, sau đó gấp lại, thả vào lọ thủy tinh.
Hôm nay trời đẹp quá, anh à.
Em mơ thấy ác mộng, nhưng giờ thì chẳng còn sợ chút nào nữa.
Anh quá dịu dàng rồi, em sẽ càng ngày càng thích anh mất thôi.
Bạn bè hay cười trêu, ngó sang rồi chọc chọc tôi: “Thích ai đấy? Còn gọi là anh nữa? Có bí mật gì sao?”
Tôi chỉ cười, né tránh.
Thích một người rất tốt, rất dịu dàng.
Thích anh ấy.
Tôi đã gấp được hai trăm lẻ tám con hạc giấy rồi.
5.
Trong một cuốn sách, tôi vô tình đọc được một câu:
“Người đẹp là có tội, luôn có kẻ ghét bỏ họ một cách vô duyên vô cớ.”
Giống như để chứng minh cho câu nói này, năm lớp 11 của tôi bỗng trở nên không còn tốt đẹp nữa.
Câu nói ấy giống như một lời nguyền, mang đến những điều tồi tệ mà tôi chẳng biết nên mở miệng thế nào.
Trong ngăn bàn tôi bắt đầu xuất hiện chuột chết, ếch chết.
Trên ghế tôi có keo dán và những tờ giấy bẩn vấy đầy màu.
Sách vở, bài tập chẳng biết từ khi nào bị mất.
Đôi khi, tôi còn bị nhốt trong nhà vệ sinh, không ra ngoài được, chỉ có thể ngồi xổm dưới đất chờ bác lao công đến mở cửa.
Tôi không phản kháng, cũng không bộc lộ cảm xúc gì.
Vì bọn họ nói, tôi là đứa trẻ không ai yêu thương, chẳng ai quan tâm tôi, càng không có ai đứng về phía tôi.
Sau lưng tôi bắt đầu xuất hiện những lời bàn tán.
Bọn họ trắng trợn đứng sau tôi, thảo luận về quần áo tôi mặc, nhân phẩm của tôi.
Bọn họ đứng ở nơi cao nhất, giống như kẻ thống trị thế giới, chà đạp tôi không chút nể nang.
Họ nói đúng, tôi là đứa trẻ không ai yêu thương.
“Ninh Uyển ngày nào cũng mặc đồ hiệu, chẳng bao giờ mặc trùng lần nào.”
“Xì xì, đừng nói vậy, tiền và quần áo của cô ta chưa chắc từ đâu ra đâu.”
“Là sao?”
“Trước đây có người nói, cô ta là gái bao đấy.”
“Thật hả? Bảo sao, cô ta xinh thế, chắc chắn có nhiều người để mắt đến. Lần trước còn thấy cô ta lên taxi nữa cơ mà.”
Tin đồn lan tràn như cơn bão.
Tôi bị những lời lẽ ác ý bủa vây, mỗi khi đi trong khuôn viên trường đều cảm thấy vô cùng cô độc.
Giống như một khúc gỗ trôi dạt giữa biển, muốn chìm xuống, nhưng luôn bị sóng đánh dạt lên, đón lấy mọi cơn giông tố.
Dần dần, trong đầu tôi xuất hiện một ý nghĩ.
Tôi ngồi trên ban công ở nhà, nhìn khu vườn đầy hoa mà có chút ngẩn ngơ.
Không biết những bông hoa ấy nở từ khi nào, cũng chẳng rõ ai đã gieo trồng. Tôi thậm chí còn không biết tên của chúng.
Lúc ấy, Tống Thanh Yến lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh tôi.
Anh ấy đưa cho tôi một hộp sữa.
“Nhìn từ đây, cảnh đẹp quá nhỉ, đúng không Uyển Uyển?”
Tôi đón lấy hộp sữa, khẽ đáp một tiếng. Sữa vẫn còn ấm.
“Dạo này ở trường thế nào?”
Tôi không trả lời.
Thực ra là không biết phải trả lời thế nào.
Tôi do dự, không biết nên kể cho anh nghe tất cả những gì mình đã trải qua, hay chỉ cười bảo rằng tôi vẫn ổn.
Nhưng còn chưa kịp nói, Tống Thanh Yến đã lên tiếng trước.
Anh không cười, vẻ mặt rất nghiêm túc, nhưng giọng điệu vẫn dịu dàng như thường:
“Lần trước đi ngang qua trường em, bạn anh thấy em bị người ta kéo đi.”
“Thứ sáu.”
À, lần đó.
Họ túm tóc tôi lôi vào con hẻm, lục soát quần áo tôi, lấy hết tiền mặt trong người tôi.
“Anh à,” giọng tôi khàn đặc, “em là đứa trẻ không ai yêu thương sao?”
Tống Thanh Yến sững sờ.
Bàn tay anh đưa lên, nhưng không biết phải đặt xuống đâu.
Tôi khẽ cười, nhìn những bông hoa nở rộ dưới chân.
“Bọn họ đều nói vậy. Dường như là vì em không có ai yêu thương, nên mới bị bắt nạt như thế.”
“Em đã viết xong bài tập, nhưng nó lại biến mất. Cuốn bài tập mua bằng số tiền em chắt chiu không biết từ lúc nào đã bị xé nát, không thể nhìn thấy một chữ nào.”
“Bên trong ngăn bàn còn có cả chuột và rắn nữa.”
“Đôi khi bị nhốt trong nhà vệ sinh, không có đồng hồ, em chỉ biết ngồi đó nghĩ, đã trôi qua bao nhiêu phút rồi?”
“Nhưng khi được bác lao công mở cửa, em mới phát hiện, mới chỉ có mười phút thôi.”
“Vậy mà em lại cảm thấy, nó dài như cả một năm vậy.”
Tôi kéo vạt chiếc váy xinh đẹp trên người, giọng nói nhẹ bẫng:
“Ngay cả mặc một bộ quần áo đẹp cũng bị người ta chỉ trỏ, nói rằng đây là cái giá em trao đổi bằng thân xác. Em không xứng đáng có những bộ đồ đẹp như thế này.”
“Anh à,” tôi nói, “hình như… em không thể sống tiếp được nữa.”
Tôi đã gấp bao nhiêu con hạc giấy rồi nhỉ?
Hình như là bốn trăm sáu mươi chín con.
Tôi không nhớ rõ nữa.