Chương 4 - Yêu Hậu Tái Lâm
Vì vừa khóc xong, nó đang thổi lại còn nấc lên từng chút.
Ta dở khóc dở cười, đưa tay xoa đầu nó:
“Đa tạ con, ta đỡ nhiều rồi, không còn đau nữa.”
Yến Triều lắc lắc đầu, cọ cọ vào tay ta,
rồi đặt tay ta nằm yên trên giường, tựa đầu lên đó.
Má nó áp chặt lòng bàn tay ta, mềm mịn, như còn cảm được lớp tơ măng lưa thưa.
Một trận đau xót không tên dâng lên nơi ngực,
tràn đến cổ họng, nghẹn chẳng thốt nên lời.
Những giọt lệ cố nén bấy lâu, vào khoảnh khắc này rơi lả tả.
“Xin lỗi.”
Ta thì thầm.
Sinh nó ra mà chẳng làm mẹ nó, sáu năm nay, nó hẳn cũng cô quạnh lắm.
Qua một tuần trà, đứa nhỏ đã gục đầu ngủ say.
Ta kéo chăn đắp lên cho nó, lại ngắm nghía thật lâu.
Cho đến khi cung nữ bưng cơm vào.
Ta đang định bảo bế Yến Triều sang ghế quý phi bên cạnh, thì chợt sững người khi thấy mặt cung nữ.
“A Sàm?”
Nàng nghe ta gọi tên, xúc động quỳ sụp:
“Nương nương, thật là người!”
A Sàm là cung nữ thân cận nhất bên ta thuở làm hoàng hậu.
Ta không quen sai người hầu hạ, nên chỉ lưu một mình nàng.
“Ngươi làm sao chắc được ta là tiên hoàng hậu, không phải kẻ giả?”
A Sàm vừa lau lệ vừa cười:
“Nô tỳ hầu hạ nương nương đã ba năm, cử chỉ tính nết, nô tỳ vừa nhìn liền nhận ra. Hơn nữa nương nương vốn nhiều kỳ tư dị tưởng, có thể quay về, nô tỳ chẳng lấy làm lạ.”
Phải, ngay cả A Sàm còn nhận ra ta,
Yến Vô sao có thể không?
Ta đỡ A Sàm đứng dậy, hàn huyên một chốc, rồi hỏi chuyện.
Hóa ra nàng vẫn ở Văn Tức cung, sau khi Ôn quý phi nhập chủ thì chuyển hầu hạ nàng ta, nay nghe tin ta xuất hiện mới vội đến xem.
Ta hỏi điều canh cánh nhất:
“Sáu năm qua rốt cuộc xảy ra chuyện gì? Câu ‘người ta từng chữa đều chết’ nghĩa là sao?”
A Sàm liếc Yến Triều đang ngủ, hạ giọng:
“Nương nương từng cứu một trấn dịch bệnh, gọi là Thanh Thủy trấn, người còn nhớ chăng?”
Ta gật đầu.
Tất nhiên là nhớ.
Thanh Thủy trấn là nơi ta và Yến Vô định tình.
10
Thanh Thủy trấn nhỏ, hẻo lánh.
Năm ấy, hắn vừa thoát chết từ tay mẫu phi của chính mình, ta chữa thương cho hắn, dắt theo bên mình, du phương tứ hải.
Trấn Thanh Thủy là nơi chúng ta đi ngang, đúng lúc ôn dịch hoành hành.
Triều đình chậm phát bạc cứu nạn, y quan phái tới chẳng biết kẹt ở chặng nào.
Các thành trấn phụ cận để tránh lây lan, lập phòng tuyến ngoài ba mươi dặm, cấm dân trấn qua lại.
Bởi vậy, Thanh Thủy trấn gần như phó mặc sinh diệt.
May thay, trước khi làm “kẻ công lược”, ta vốn là y giả, những chứng bệnh ấy còn ứng phó được.
Thế là ta và Yến Vô lưu lại một thời gian: ta nghiền dược chữa người, hắn mù mắt mà vẫn một lòng phụ tá, không nề hà khổ nhọc.
Từ khi ta bắt đầu công lược, Yến Vô luôn cô liêu khép kín.
Ta bầu bạn với hắn nhiều năm ở chùa Thượng Hoa,
hắn từ con nhím toàn gai chỉ hóa thành con mèo ít lời phòng bị;
thà cam chịu mù, chẳng cho ta trị mắt.
Hắn nói: “Nhân gian nhơ nhớp, có gì đáng xem.”
Ta từng nghĩ công lược phỏng chừng thất bại.
Cho đến khi ở Thanh Thủy trấn, hắn hiếm hoi chủ động muốn trị mắt.
Ta không hiểu, hỏi nguyên do.
Hắn đáp: “Có một người ta muốn thấy.”
Ngày gỡ băng, mắt chưa kịp quen ánh sáng,
hắn đã nóng lòng đưa tay chạm mặt ta:
“Diệp Hoài Tịch.”
Khẽ gọi, giọng nhạt mà chắc nịch.
Về sau, tình ý gần gũi dần.
Cũng từ đó, hắn hạ quyết tâm tranh đoạt ngôi báu.
“Bốn năm trước, dân Thanh Thủy trấn đồng loạt vong mạng trong một đêm, nguyên nhân bất tường.
Chỉ có bức tượng nương nương trong trấn vỡ nát tứ tán, trên mảnh đá vỡ dùng huyết viết bốn chữ.”
Giọng A Sàm kéo ta về khỏi hồi ức:
“Về sau, nhiều người từng được nương nương cứu cũng lần lượt tử vong bất minh.
Tượng đá nơi địa phương đồng dạng nứt vỡ, chỉ lưu bốn chữ.”
Ta vội hỏi là bốn chữ gì.
Nàng cắn môi, rồi nghiến răng nói:
“Yêu hậu hại người.”
11
Sau khi cứu được Thanh Thủy trấn, bách tính trong trấn quả thực đã dựng tượng đá cho ta.
Cũng chính họ dẫn dắt những người từng được ta cứu chữa nơi khác, khiến tượng đá của ta rải khắp Đại Tấn.
Vì vậy, khi năm hoàng tử tranh ngôi, Yến Vô chiếm được lòng dân.
Bên tai tiếng A Sàm vẫn chưa dứt, song đã bắt đầu run rẩy:
“Về sau lời đồn mỗi lúc một dữ, dân gian đem mọi thiên tai nhân họa đều đổ lên người nương nương, thậm chí có đại thần dâng sớ, muốn dời phần mộ nương nương ra khỏi hoàng lăng, thiêu hủy để tế trời.”
Xem ra ắt có kẻ mưu sâu kế độc, cốt khiến Yến Vô mất lòng dân.
Chỉ là, vì sao không dùng cách khác, lại phải phí uổng bấy nhiêu sinh mạng?
Ngón tay ta vô thức siết lại, kéo căng vết thương sau lưng mà đau nhói.
Ta hít sâu, buộc mình trấn định:
“Yến Vô ứng đối thế nào?”
“Bệ hạ… chém ngay kẻ dâng sớ tại chỗ.”
Ta khẽ cười khổ, việc ấy quả đúng là hắn làm ra được.
Có điều, chỉ dựa vào vậy mà áp lên tiếng “bạo quân” e vẫn chưa đủ.
Ta lại hỏi A Sàm liệu còn việc gì khác.
Quả nhiên, nàng gật đầu, ghé sát, hạ giọng hơn nữa:
“Bệ hạ lại tiếp tục trừng trị một số người. Từ đó dấy lên đồn đoán, nói bệ hạ vốn lòng dạ độc lệ, để đăng cơ không tiếc giết huynh hại mẫu.”