Chương 5 - Quy Luật Diễn Thanh Y - Quỷ Lê Viên
5.
Tiểu Thạch Đầu hát ngắt quãng, mặc dù hát không hay nhưng vẫn tiếp tục hát.
Nhưng anh ấy càng hát thì sắc mặt càng trở nên khó coi, như thể anh ấy nhìn thấy thứ gì đó không nên nhìn thấy.
Khi xoay người di chuyển, tôi nhìn thấy những ánh mắt của các vị tiên sinh đều rất khó coi, càng lúc càng không giống người.
Khi câu hát cuối cùng của vở kịch kết thúc, bốn vị tiên sinh vẫy cành liễu, tập hợp những “người” dưới sân khấu lại một chỗ.
Một tia sáng lóe lên, những “người” đó đều đã biến mất.
Tiểu Thạch Đầu quỳ xuống đất, nôn ra rất nhiều thứ màu đen.
Khi tiến đến gần hơn tôi mới nhìn thấy một ngón tay người đã cháy đen trong bãi nôn của Tiểu Thạch Đầu.
Sau khi nôn ra ngón tay đó, cơn sốt của Tiểu Thạch Đầu dần thuyên giảm, sau vài ngày bồi dưỡng cơ thể yếu đuối của mình thì anh ấy đã khỏe lại.
Nhưng kể từ ngày hôm đó, Lưu tiên sinh đã ngừng dạy cho Tiểu Thạch Đầu những vở kịch khác, chỉ hát đúng một bài “Bá Vương Biệt Cơ”.
Đáng lẽ đây là vở kịch do hai người hát, nhưng chúng tôi tách biệt nhau, chỉ tập trung hát phần của mình mà không cần hợp tác.
Tô tiên sinh nói khi nào tôi có thể xuất sư thì khi đó mới có thể diễn cùng Tiểu Thạch Đầu.
Nhưng khi lên sân khấu mới được hát, hát xong thì phải về phòng của mình ngay, không được gặp người ngoài.
Lúc ấy, tôi nghĩ đến việc ba ngày Tô tiên sinh mới lên sân khấu một lần, mỗi lần chỉ hát một bài.
Sau khi hát xong, ông ấy sẽ trở về sân nhà, buổi tối hôm đó chỉ ở một mình, ngay cả tôi cũng không thèm quan tâm.
Chỉ khi đến giờ ăn sáng ngày hôm sau, tôi mới được phép vào phòng ông ấy.
Khi ấy, trông ông vô cùng mệt mỏi, hai mắt đỏ ngầu như thể cả đêm không ngủ.
Vào ngày thứ ba, cánh cửa sân mở ra, chủ gánh hát bước vào để ấn định thời gian cho buổi diễn kế tiếp.
Kể từ lần cuối diễn với Tiểu Thạch Đầu, tôi dần hiểu được vai diễn Thanh Y này không đơn giản như vậy.
E rằng những quy định của Tô tiên sinh có liên quan đến những “người” kỳ lạ đó.
Về phần tại sao không dùng từ khác để miêu tả, đó cũng là quy định của Tô tiên sinh.
Ông ấy nói rằng khi nhìn thấy những thứ kỳ lạ thì phải cung kính, gọi họ là “người”, ngay cả suy nghĩ trong đầu cũng phải gọi như thế.
Ba năm trôi qua trong nháy mắt, những học trò khác đều đã xuất sư và có thể diễn một số vai nhỏ trong vở kịch.
Chỉ còn tôi và Tiểu Thạch Đầu ở lại sân nhà của tiên sinh để luyện tập mỗi ngày.
Tô tiên sinh nói rằng những ai học diễn Thanh Y đều sẽ xuất sư muộn hơn một chút, chưa đến 14 tuổi thì không thể lên sân khấu.
Vốn dĩ Tiểu Thạch Đầu không cần phải như thế, nhưng sau khi uống bát trà của tôi và diễn cùng với tôi thì anh ấy cũng phải tuân thủ quy tắc này.
Chúng tôi trở thành hai người nhàn rỗi nhất trong đoàn kịch, nhưng số tiền hàng tháng mà chủ gánh hát đưa cho cũng giống như những học trò khác.
Điều này làm cho các học trò khác không hài lòng, nhưng nghĩ đến việc bị treo lên đánh thì không ai dám bàn tán trước mặt chúng tôi.
Nhưng vài năm sau, khi tôi và Tiểu Thạch Đầu sắp xuất sư thì nhiều người nhìn chúng tôi bằng ánh mắt khác.
Trong mắt họ có sự kinh ngạc, cũng có sự sợ hãi không thể nói thành lời.
Tô tiên sinh lần đầu tiên kể với tôi về câu chuyện của Thanh Y.
Ông ấy nói rằng, Thanh Y là một loại di sản, cũng là biểu tượng của đoàn kịch, hơn hết còn là vị thần bảo vệ của đoàn kịch.
Tất cả mọi người đều cung kính Thanh Y chỉ là cách nói bên ngoài, cách nói thực sự là người người đều sợ hãi Thanh Y.
Trong Thanh Y, kỹ năng ca hát không phải do học được mà là kế thừa.
Ông ấy đưa tôi ra phía sau sân, phía sau là một căn phòng cũ chứa xiềng xích và băng ghế dài bên trong.
Tôi ở đoàn kịch lâu như vậy nhưng không hề biết về sự tồn tại của căn phòng này, bây giờ nghĩ lại, thì ra đây mới là bí mật thật sự của vai diễn Thanh Y…
Tiểu Thạch Đầu hát ngắt quãng, mặc dù hát không hay nhưng vẫn tiếp tục hát.
Nhưng anh ấy càng hát thì sắc mặt càng trở nên khó coi, như thể anh ấy nhìn thấy thứ gì đó không nên nhìn thấy.
Khi xoay người di chuyển, tôi nhìn thấy những ánh mắt của các vị tiên sinh đều rất khó coi, càng lúc càng không giống người.
Khi câu hát cuối cùng của vở kịch kết thúc, bốn vị tiên sinh vẫy cành liễu, tập hợp những “người” dưới sân khấu lại một chỗ.
Một tia sáng lóe lên, những “người” đó đều đã biến mất.
Tiểu Thạch Đầu quỳ xuống đất, nôn ra rất nhiều thứ màu đen.
Khi tiến đến gần hơn tôi mới nhìn thấy một ngón tay người đã cháy đen trong bãi nôn của Tiểu Thạch Đầu.
Sau khi nôn ra ngón tay đó, cơn sốt của Tiểu Thạch Đầu dần thuyên giảm, sau vài ngày bồi dưỡng cơ thể yếu đuối của mình thì anh ấy đã khỏe lại.
Nhưng kể từ ngày hôm đó, Lưu tiên sinh đã ngừng dạy cho Tiểu Thạch Đầu những vở kịch khác, chỉ hát đúng một bài “Bá Vương Biệt Cơ”.
Đáng lẽ đây là vở kịch do hai người hát, nhưng chúng tôi tách biệt nhau, chỉ tập trung hát phần của mình mà không cần hợp tác.
Tô tiên sinh nói khi nào tôi có thể xuất sư thì khi đó mới có thể diễn cùng Tiểu Thạch Đầu.
Nhưng khi lên sân khấu mới được hát, hát xong thì phải về phòng của mình ngay, không được gặp người ngoài.
Lúc ấy, tôi nghĩ đến việc ba ngày Tô tiên sinh mới lên sân khấu một lần, mỗi lần chỉ hát một bài.
Sau khi hát xong, ông ấy sẽ trở về sân nhà, buổi tối hôm đó chỉ ở một mình, ngay cả tôi cũng không thèm quan tâm.
Chỉ khi đến giờ ăn sáng ngày hôm sau, tôi mới được phép vào phòng ông ấy.
Khi ấy, trông ông vô cùng mệt mỏi, hai mắt đỏ ngầu như thể cả đêm không ngủ.
Vào ngày thứ ba, cánh cửa sân mở ra, chủ gánh hát bước vào để ấn định thời gian cho buổi diễn kế tiếp.
Kể từ lần cuối diễn với Tiểu Thạch Đầu, tôi dần hiểu được vai diễn Thanh Y này không đơn giản như vậy.
E rằng những quy định của Tô tiên sinh có liên quan đến những “người” kỳ lạ đó.
Về phần tại sao không dùng từ khác để miêu tả, đó cũng là quy định của Tô tiên sinh.
Ông ấy nói rằng khi nhìn thấy những thứ kỳ lạ thì phải cung kính, gọi họ là “người”, ngay cả suy nghĩ trong đầu cũng phải gọi như thế.
Ba năm trôi qua trong nháy mắt, những học trò khác đều đã xuất sư và có thể diễn một số vai nhỏ trong vở kịch.
Chỉ còn tôi và Tiểu Thạch Đầu ở lại sân nhà của tiên sinh để luyện tập mỗi ngày.
Tô tiên sinh nói rằng những ai học diễn Thanh Y đều sẽ xuất sư muộn hơn một chút, chưa đến 14 tuổi thì không thể lên sân khấu.
Vốn dĩ Tiểu Thạch Đầu không cần phải như thế, nhưng sau khi uống bát trà của tôi và diễn cùng với tôi thì anh ấy cũng phải tuân thủ quy tắc này.
Chúng tôi trở thành hai người nhàn rỗi nhất trong đoàn kịch, nhưng số tiền hàng tháng mà chủ gánh hát đưa cho cũng giống như những học trò khác.
Điều này làm cho các học trò khác không hài lòng, nhưng nghĩ đến việc bị treo lên đánh thì không ai dám bàn tán trước mặt chúng tôi.
Nhưng vài năm sau, khi tôi và Tiểu Thạch Đầu sắp xuất sư thì nhiều người nhìn chúng tôi bằng ánh mắt khác.
Trong mắt họ có sự kinh ngạc, cũng có sự sợ hãi không thể nói thành lời.
Tô tiên sinh lần đầu tiên kể với tôi về câu chuyện của Thanh Y.
Ông ấy nói rằng, Thanh Y là một loại di sản, cũng là biểu tượng của đoàn kịch, hơn hết còn là vị thần bảo vệ của đoàn kịch.
Tất cả mọi người đều cung kính Thanh Y chỉ là cách nói bên ngoài, cách nói thực sự là người người đều sợ hãi Thanh Y.
Trong Thanh Y, kỹ năng ca hát không phải do học được mà là kế thừa.
Ông ấy đưa tôi ra phía sau sân, phía sau là một căn phòng cũ chứa xiềng xích và băng ghế dài bên trong.
Tôi ở đoàn kịch lâu như vậy nhưng không hề biết về sự tồn tại của căn phòng này, bây giờ nghĩ lại, thì ra đây mới là bí mật thật sự của vai diễn Thanh Y…