Chương 5 - Người Trả Nợ Hoành Thánh
“Tạm ổn.” Ta gật đầu.
Trong lúc ấy, hai cánh tay bị thương của ta lại rỉ máu.
Hắn vừa trông thấy, sắc mặt liền trầm xuống.
Hắn quay người, giọng nghiêm nghị vang lên giữa đại đường:
“Dù là vương tử, phạm pháp cũng phải chịu cùng một tội với thứ dân! Thành vương thế tử ngang nhiên cưỡi ngựa giữa đường, bằng chứng đã được Ngự sử đài thu thập đầy đủ.”
“Nghe nói hôm nay Kinh Triệu phủ thẩm vụ này, bản quan đặc biệt mang chứng cứ đến trình!”
“……”
Cả công đường rơi vào một mảnh trầm mặc nặng nề.
Phủ doãn Kinh Triệu lúc này mặt mày như mắc phải bệnh đường ruột, nhăn nhó khổ sở, tay run run lật mấy tờ chứng cứ, lông mày nhíu thành một đám rối:
“Nhưng mà…”
“Nếu Lý ái khanh thấy khó xử, vậy vụ án này để trẫm đích thân thẩm tra.”
Một câu vừa dứt, cả công đường lập tức quỳ rạp xuống như sóng đổ:
“Tham kiến bệ hạ!”
Hoàng đế vận cẩm bào, từ ngoài bước lên đại điện.
Phía sau ngài là vài vị trọng thần trong triều, quan chức cao thấp khác nhau, người ngay kẻ gian đủ cả — điểm chung duy nhất là:
Bọn họ đều từng ăn một bát hoành thánh ở quán ta.
Chỉ một chút ân tình khi xưa, vậy mà hai mươi năm qua vẫn có người khắc ghi trong lòng.
Vừa thấy hoàng đế đến, phủ doãn vội vàng tránh khỏi chủ vị, nhường chỗ không dám chậm trễ.
Hoàng đế cũng không khách khí, ngồi phắt xuống, cầm lấy mộc bàn gõ mạnh một cái, khí thế không ai sánh nổi:
“Đem Thành vương thế tử lên đây!”
“Tới rồi đây!”
Ninh Chiêu hầu từ ngoài xông vào, xách theo Thành vương thế tử như xách gà, bước một bước là vọt thẳng lên điện:
“Lão tử bắt được thằng nhãi này rồi đây!”
“Bệ hạ, ngài không biết đâu!”
“Thần xông vào phủ Thành vương thì cả nhà hắn sống chết cũng không chịu giao người!”
“May mà thần nhanh trí, trèo tường vòng ra sau viện. Thằng nhãi này trốn trong phòng không dám ló mặt!”
“Giang ái khanh làm rất tốt.”
Hoàng đế cười khẽ, gật đầu tán thưởng:
“Sau này trẫm nhất định ban thưởng hậu hĩnh.”
Rồi ngài quay sang nhìn Thành vương thế tử, ánh mắt lạnh lùng:
“Dạo gần đây, ngươi cưỡi ngựa cuồng loạn trong kinh thành, hễ ai cản là đánh. Ngươi nhận hay không nhận?”
Thế tử còn định cãi:
“Thần… không—”
Hoàng đế nhướng mày, giọng lạnh như băng:
“Khi quân là tội chết.”
Thế tử tái mặt, mồ hôi túa ra như tắm, run giọng đáp:
“…Thần nhận.”
“Rất tốt.”
Hoàng đế gật đầu hài lòng:
“Ngươi nhận tội cũng nhanh đấy.”
“Người đâu, đánh cho ta — đánh đến khi phụ thân hắn cũng không nhận ra hắn nữa!”
19
Khi Thành vương hấp tấp chạy đến, thì Thế tử đã bị đánh đến sưng vù cả mặt, chẳng khác gì cái đầu heo.
Thành vương nhìn con trai, lòng đau như cắt, vừa xót xa vừa không dám mở miệng cầu xin, chỉ đứng tại chỗ giậm chân đến phát điên.
Đợi đến khi Thế tử chỉ còn thoi thóp một hơi thở, hoàng đế mới từ tốn giơ tay lên, ra hiệu dừng lại.
“Dừng tay đi.”
Hoàng đế vừa mở miệng, Thành vương lập tức nhào tới, ôm lấy đứa con đã bị đánh đến biến dạng, vừa khóc vừa chảy nước mũi:
“Con ơiiii ——!”
“Được rồi, đừng làm ầm lên nữa.”
Hoàng đế phất tay ngăn lại, lạnh nhạt nói:
“Trẫm có một danh sách. Đợi thằng nhãi này lành vết thương xong, phải đích thân tới từng nhà xin lỗi, bồi thường. Hiểu chưa?”
“Thần tuân chỉ! Thần tuân chỉ!”
Thành vương gật đầu như giã gạo, chẳng dám nói một lời trái ý.
“Còn nữa,” hoàng đế chỉ tay về phía ta,
“Hai roi trên người Tống cô nương, ngươi định xử lý thế nào?”
“Chờ khuyển tử khỏi hẳn, thần sẽ mang bạc… bạc một nghìn lượng đến tạ tội—”
“Hửm?”
Hoàng đế liếc mắt, chỉ một tiếng nhẹ nhàng.
“…Thần… thần sẽ mang vàng mười nghìn lượng đến nhận lỗi.”
“Ừ.” Hoàng đế nhàn nhạt gật đầu, coi như chấp nhận.
Còn ta thì há hốc mồm, lắp bắp nói không nên lời:
“Cái—cái này… mười nghìn lượng vàng thì cũng… quá nhiều rồi ạ.”
Hai roi, mà đổi thành vàng mười vạn lượng.
Nếu chuyện này mà truyền ra ngoài, e là cả kinh thành sẽ có người canh cửa Thành vương phủ, chỉ để… chờ ăn một roi.
Hoàng đế nghe vậy, bật cười:
“Tống cô nương nhân phẩm cao quý, cả kinh thành đều biết. Trẫm nghĩ, nàng cũng không nỡ nhận chỗ vàng đó đâu.”
“Nhưng trẫm lại có một cách hay.”
Ngài quay sang ta, mắt sáng như trăng rằm:
“Hay là… dùng mười vạn lượng vàng ấy làm vốn, lập một thư viện ở phía Nam kinh thành, nàng thấy sao?”
Lập thư viện là việc thiện lớn, người trong đại điện ai nấy đều gật đầu tán thành, không ai phản đối.
Hoàng đế mỉm cười mãn nguyện:
“Vậy quyết định thế đi. Giải tán thôi.”
Trước khi rời đi, ngài còn không quên liếc sang Thành vương, lạnh lùng cảnh cáo:
“Nếu tiểu tử nhà ngươi còn dám gây chuyện khắp nơi lần nữa, trẫm sẽ đánh cho hắn ngay cả một hơi thở cũng không kịp giữ lại.”
20
Hơn nửa tháng sau, Thành vương thế tử thương chưa lành hẳn, đã bị Thành vương lôi dậy khỏi giường, bắt phải tới từng nhà xin lỗi, bồi thường danh dự.
Mà cùng lúc ấy, ở phía nam kinh thành, thư viện mới cũng đang được khởi công xây dựng.
Hoàng đế lại tìm đến ta, mở lời:
“Trẫm muốn mời nàng làm viện trưởng đời đầu của thư viện này.”
Ta lập tức xua tay, lui liền mấy bước:
“Thư viện, thư viện… Thần đâu có học thức gì, sao dám làm viện trưởng?”
Hoàng đế nhìn ta, không cười nữa, giọng nghiêm trang:
“Nàng tuy không tinh thông văn chương, nhưng đức hạnh và nhân phẩm — người người đều nhìn thấy.”
“Viện trưởng thư viện, không chỉ cần học vấn, mà càng cần đạo đức công tâm. Ngoài nàng ra, trẫm thật lòng không yên tâm giao cho ai khác.”
Ngài nhìn ta, ánh mắt chân thành:
“Nhiều năm trước, nàng từng nói, làm việc thiện mà không cầu hồi báo — chỉ có thánh nhân mới làm được.”
“Nhưng trẫm thấy, mấy chục năm nay, nàng làm biết bao việc tốt, vậy mà đã từng đòi hỏi được gì chưa?”
Hồi báo…
Ta nuốt xuống vị đắng đang dâng lên nơi cổ họng.
Lặng lẽ cuối đầu, không nói nên lời.
“Tâm an,” ta khẽ nói, “chính là hồi báo lớn nhất đời ta.”
Trước khi rời đi, hoàng đế còn dặn:
“Giáo viên trong thư viện, trẫm sẽ tự mình sắp xếp. Nàng chỉ cần giữ vững bản tâm là đủ.”
Giữ vững bản tâm…
Nhưng ta — Tống Lan Thanh, bản tâm của ta, rốt cuộc là gì?
Cả đời này, ta đội trên đầu cái tên Tống Châu, không dám đi sai một bước.
Người người ca tụng Tống Châu lương thiện, cao quý, như ánh trăng vằng vặc giữa nhân gian.
Nhưng mỗi khi đêm khuya chập chờn giấc ngủ, luôn có một giọng nói vang vọng trong lòng:
“Ngươi không phải Tống Châu. Ngươi là Tống Lan Thanh.”
“Đừng giả nữa. Làm chính mình đi.”
Thế rồi mỗi sáng, khi mặt trời lên, ta lại gượng dậy,
lại làm Tống Châu hoàn hảo, đoan trang, không chút vết nhơ —
và cứ thế, diễn tròn vai ấy suốt cả một đời.
21
Việc xây dựng thư viện tiến triển thuận lợi.
Các bậc đại nho khắp nơi, nghe tin có thư viện dành riêng cho sĩ tử nghèo thiên hạ, đều tự nguyện tới giảng dạy.
Ta giao lại Tống Châu Hoành Thánh cho một quản sự đáng tin,
còn mình thì bắt đầu vùi đầu vào việc điều hành thư viện.
Năm này qua năm khác,
chỉ cần ta bước đi trong khuôn viên thư viện —
mọi người đều sẽ khom lưng hành lễ, cung kính hô một tiếng:
“Viện trưởng Tống Châu.”
Tên ta được khắc lên bia đá ghi chép sự tích trong thư viện.
Ta đứng trước tấm bia, nhìn hai chữ “Tống Châu” được khắc ở dòng đầu tiên, chợt thấy — có lẽ, ta đã hoàn thành tâm nguyện cả đời:
Khiến cái tên Tống Châu, lưu danh muôn đời.
Mà dù cho chưa hoàn toàn đạt được… ta cũng chẳng thể làm tốt hơn nữa rồi.
22
Năm ta sáu mươi bảy tuổi, ta rời chức viện trưởng, trở về nhà an hưởng tuổi già.
Người thường đến thăm ta nhất là một cô bé hai mươi mấy tuổi, tên chẳng mấy ai nhớ, nhưng gương mặt lại khiến ta luôn thấy yên lòng.
Mười mấy năm trước, con bé bị anh chị dâu bán đi làm dâu từ thuở nhỏ.
Ta khi ấy tình cờ đi ngang qua bỏ tiền lớn chuộc con bé ra ngoài.
Con bé vì cảm động mà cứ khăng khăng đòi ký khế bán thân, muốn làm nha hoàn cho ta, suốt đời hầu hạ.
Ta vội vàng xua tay, nói:
“Không được không được! Một đời người… quá dài.”
“Chỉ vì một chút ân tình, mà đem cả đời mình ra đánh đổi — không đáng.”
Ta nói như vậy,
nhưng trong lòng lại tự hiểu rõ —
ta đã đem trọn đời này, không chút do dự, đặt cả vào món ân tình ấy.
Dưới sự nâng đỡ của ta, con bé từ từ lớn lên,
rồi gả cho người tốt, sinh con dưỡng cái, sống đời bình an.
Sau khi ta già, cô bé ấy vẫn thường xuyên đến thăm.
Ăn tối cùng ta xong, con bé đẩy chiếc xe lăn do thợ thủ công mới phát minh, đưa ta đến thăm lại quán hoành thánh năm xưa.
Cây nhỏ mà ta trồng cách đây năm mươi năm, nay đã tán rộng như ô, cành lá sum suê.
Tán cây to lớn che cả ánh nắng, rải xuống một khoảng bóng râm dịu mát.
Những chiếc hoành thánh trắng trắng tròn tròn vẫn đang xoay vòng trong nồi nước lèo gà sôi sùng sục.
Chín rồi thì được vớt ra, rắc hành hoa và ngò lên trên.
Dưới bóng cây, có khách ôm bát hoành thánh nóng hổi, vừa ăn vừa tấm tắc khen ngon.
Còn ta, cũng ngồi dưới bóng râm ấy, nheo mắt lại, lặng lẽ cảm nhận cái mát mẻ trong lành của buổi chiều tà.
“Tống Lan Thanh.”
Giữa cơn mơ hồ, ta bỗng nghe có người gọi tên mình.
Không phải “Tống Châu”, mà là “Tống Lan Thanh”.
Ta hoảng hốt quay đầu lại, nhìn quanh bốn phía —
không thấy ai cả.
“Viện trưởng Tống Châu, người sao vậy?”
Cô bé bên cạnh khẽ hỏi, giọng lo lắng.
“Không sao.” Ta lắc đầu.
Một luồng mỏi mệt ập đến, ta cảm thấy mí mắt nặng trĩu.
Ý thức dần dần mờ nhòa,
rồi từ từ khép lại, không còn sức mà mở ra nữa.
n tình mang tên “Tống Châu”, đời này ta đã trả xong rồi.
Trong một mảnh tối mờ mịt, ý thức ta như phiêu đãng, mơ hồ nghĩ:
Kiếp sau… xin cho ta đừng mệt mỏi đến vậy nữa.
End