Chương 7 - Lăn Xuống Mộ Tổ Và Hội Ngu Thờ Trăng
Cứ thế, chuyện càng lúc càng rối.
Việc tiếp theo là phải đưa mọi người về đúng chỗ của mình.
Chỉ có điều, mời thần dễ, tiễn thần khó.
Trương Bưu không quan trọng, gã chẳng phải người tốt, tôi có thể cưỡng ép đuổi đi.
Nhưng chị Hồng và bà Giang đều vô tội, không thể tùy tiện xử lý.
chị Hồng thì rất dễ nói chuyện.
Bà ấy bảo mình là góa phụ, không có con cháu.
Chỉ hy vọng sau này, vào dịp Thanh Minh và mùng Một âm lịch, nhà họ Trần có thể đốt giấy thắp hương cho bà.
Trần Viễn Tương lập tức đồng ý, còn viết giấy cam kết, đốt gửi cho chị Hồng.
Bà Giang ngồi lặng trên ghế sofa, hồi lâu mới nhàn nhạt cất tiếng.
“Yêu cầu của tôi, để sau hãy nói.”
23
Việc đầu tiên sau khi ông nội khôi phục cơ thể là chạy ngay đến bệnh viện, túm lấy Trần Xương Lâm đang nằm trên giường bệnh, tát cho mấy cái bạt tai vang dội.
“Sao tao lại đẻ ra thằng con rùa như mày chứ!”
“Đến tổ tiên nhà mình cũng không nhận ra!”
“Nhà cửa đang yên đang lành bị mày làm thành ra thế này đây!”
“Tao bảo mày dời mộ, tao bảo mày dời mộ à!”
Trần Xương Lâm bị đánh xong, mặt mày xám xịt, chống nạng rời khỏi bệnh viện.
Người Khánh Gia có tập tục, người trên 80 tuổi không thường lên núi thăm mộ.
Nhưng lần này, ông nội nhất quyết tự mình đi tìm mộ cụ cố.
Cả đoàn người đông đúc kéo nhau lên núi.
Trần Xương Lâm được Trần Viễn Tương cõng lên.
Lên đến đỉnh núi, ông chống gậy chỉ vào một ụ đất, vẻ mặt không phục.
“Tôi dời mộ từ đây mà.”
“Tôi nhớ rõ ông tôi chôn ở đây, chắc chắn không nhầm đâu.”
“Bốp!”
Ông bị gậy của ông nội đập mạnh vào lưng.
Ông nội khom lưng, cung kính nói;
“Bà Giang, phiền bà cho tôi biết, có phải mộ của cha tôi chôn ở đây không?”
Bà Giang liếc nhìn ông, rồi chuyển ánh mắt về phía tôi và Tống Phi Phi.
“Nếu muốn tôi cho biết, các cô phải đồng ý với tôi một điều kiện.”
Tôi còn chưa kịp mở miệng, Trần Viễn Tương đã “phịch” một tiếng quỳ xuống đất.
“Linh Châu, cậu cứ đồng ý với bà ấy đi.”
“Chỉ cần tìm được mộ của cụ cố tôi, tôi sẽ lập tức gia nhập cái hội Thiên Địa của các cậu.”
Thế là… vòng tròn khép lại rồi.
24
Thấy tôi gật đầu, bà Giang thở phào nhẹ nhõm.
“Tôi và chồng tôi được chôn chung.”
“Bây giờ, tôi mong mọi người tìm lại bình đựng cốt của chồng tôi.”
Trần Xương Lâm gần như nhảy dựng lên với cái chân khập khiễng.
“Không thể nào! Tuyệt đối không thể nào!”
“Khi tôi đào hũ cốt, chỉ thấy một cái, hoàn toàn không có cái thứ hai.”
Bà Giang mím môi, nhìn ông ta bằng ánh mắt nửa cười nửa không.
“Đúng là, tôi và chồng tôi được chôn gần với ông nội cậu.”
“Chỉ có điều, sau đó ngọn núi này xảy ra một trận lở đất.”
“Mộ của chồng tôi và mộ của ông nội cậu đều bị cuốn trôi.”
Mọi người nghe xong lập tức phấn chấn, gần như đồng thanh hỏi;
“Cuốn đi đâu?”
Bà Giang thản nhiên duỗi một ngón tay chỉ về phía tây nam.
Tôi chớp mắt.
Phía tây nam chỉ có biển mênh mông, không có gì khác.
Tống Phi Phi hít sâu một hơi, bà Giang nhìn cô ấy bằng ánh mắt đầy cảm thông;
“Đúng rồi.”
Trần Viễn Tương vẫn nheo mắt nhìn quanh, như một kẻ ngốc.
“Ở đâu? Cụ cố tôi ở đâu?”
Từ khi mộ của cụ cố nhà họ Trần bị lở đất cuốn trôi đã hơn mười năm.
Biển xa xăm, nước xanh thăm thẳm không thấy đáy.
Đi mò mảnh xương trong biển, đúng là mò kim đáy bể.
“Phi Phi, đi thôi.”
Trần Viễn Tương ôm chặt lấy chân tôi;
“Đừng đi mà, Linh Châu.”
Ông nội Trần dùng sức siết chặt cây gậy, gương mặt già nua vì xúc động mà đỏ bừng.
“Chỉ cần tìm lại được bình đựng cốt của cha tôi, nhà họ Trần, nhà họ Trần bằng lòng trả bất cứ giá nào.”
Tống Phi Phi nhẹ kéo tay áo tôi;
“Cụ cố nhà họ Trần cũng xem như người nhà tôi.”
Được rồi, xuống biển thôi.
25
Bà Giang nói, thực ra ở chân núi này có một ngôi mộ dưới đáy biển.
Bà nghĩ rằng bình đựng cốt của chồng bà và cụ cố nhà họ Trần đã bị cuốn vào ngôi mộ đó.
Trong đầu tôi lập tức hiện lên hai chữ: “Hải táng”.
Vào thời Minh, vùng ven biển từng ban hành 《Lệnh hải táng》.
Chính quyền quy định người gặp nạn trên biển “không được mang quan tài lên bờ, phải chôn ngay trên biển”.
Ở một số nơi, người ta tin rằng linh hồn của người chết trên biển sẽ lưu lại biển khơi.
Nếu chôn cất trên đất liền, linh hồn sẽ không trọn vẹn, không thể đầu thai.
Đó là hình thức hải táng bình thường, nghi lễ cũng rất đơn giản.
Đầu tiên, phải chọn một ngày nắng đẹp.
Kiêng hải táng vào buổi trưa.
Lúc đó dương khí mạnh nhất, hồn phách khó mà an nghỉ.
Kiêng hải táng vào ngày mưa giông, vì trời giận không nên chôn, dễ chọc giận thủy thần, gây ra sóng gió, tai ương.
Chọn được ngày tốt, sẽ đưa quan tài lên thuyền, để thuyền trôi tự do trên biển.
Khi sóng yên biển lặng, mặt biển phẳng lặng, nghĩa là đã đến nơi.
Người thân sẽ thả quan tài hoặc bình đựng cốt xuống biển.
Nếu gặp “ngược sóng đẩy quan tài” (quan tài bị sóng đẩy ngược trở lại), phải lập tức dừng lễ, đốt hương tạ tội.
Đây là điềm báo linh hồn không muốn rời đi, nếu ép chôn sẽ dẫn đến “hồi sát”.
Nếu mọi việc suôn sẻ, đợi quan tài trôi ba khắc rồi có thể trở về nhà.
Quan tài không được hướng về quê cũ.
Linh hồn về không quay đầu nhìn quê, nếu không sẽ thành “linh hồn vọng quê”, đêm đêm gõ cửa quấy rầy gia đình.
Sau khi về nhà, trong bảy ngày không được ăn hải sản, trong bốn mươi chín ngày kiêng câu cá ở khu vực chôn cất.
Như vậy, lễ hải táng mới được coi là hoàn chỉnh.
Nhưng còn một loại hải táng nữa, hoàn toàn khác.
Ở những nơi hung sát (như hải nhãn, bãi đá âm), cần dùng người sống làm tế vật, hải táng trở thành một phần của nghi lễ phong ấn.
《Nam Hải Chí Quái》 thời Minh có ghi chép rằng, đội của Trịnh Hòa từng chôn những kẻ phản loạn tại vùng biển “Đảo Không Về”, dùng máu để trấn áp oán khí ở hang rồng đáy biển.
Hải táng bình thường gần như không có mộ.
Loại mộ dưới đáy biển mà bà Giang nói chắc chắn thuộc về trường hợp thứ hai.
Người được chôn xuống, vừa là vật trấn giữ, vừa là tế phẩm.
Mục đích là để phong ấn thứ gì đó cực kỳ khủng khiếp dưới đáy biển.