Chương 10 - Khi Thiên Kim Thật Gặp Nỗi Sợ
Từ Thanh Nguyệt thì ở bên kia đại dương học thạc sĩ.
Chúng tôi, ai cũng đang trưởng thành theo cách của riêng mình.
Hai năm sau, dưới sự dìu dắt của gia đình, tôi cuối cùng cũng có năng lực để lên làm quản lý.
Tôi đã thật sự đủ sức tự mình đảm đương mọi việc.
Lúc đầu, ba của Tống Triều vốn không đánh giá cao tôi – một cô con gái được nhận lại từ làng quê, nhưng tiếp xúc dần dần, trong ánh mắt ông cũng có thêm phần tán thưởng.
Thậm chí ông còn thường xuyên tác hợp cho tôi với Tống Triều.
Nửa năm sau, Từ Thanh Nguyệt và Khang Thước về nước.
Hai người mở phòng tranh, tổ chức triển lãm.
So với tôi bận rộn, Từ Thanh Nguyệt nhàn nhã và tự do hơn nhiều. Nửa tháng ở thành phố, nửa tháng lại cùng bạn trai về quê.
Cuộc sống nơi làng quê đã đem đến cho cô ấy vô vàn cảm hứng.
Trong tranh của cô ấy, xuất hiện rất nhiều yếu tố nông thôn – những gam màu mộc mạc mà ấm áp, những nét vẽ đầy cảm xúc khiến tranh của cô ấy nổi tiếng đến bất ngờ.
Tôi còn cất giữ một bức.
Tranh vẽ cánh đồng lúa mì mùa gặt vàng óng, bên rìa con đường đất có con Đại Hoàng đang chạy, theo sau là một con gà trống và một con ngỗng, trông hùng hổ vô cùng.
Tôi nói:
“Sao nhìn con gà với con ngỗng này quen thế?”
Từ Thanh Nguyệt cười tít mắt:
“Chính là hai con rượt tôi lúc lần đầu về nhà đó, sao mà không quen cho được.”
“…Tôi hỏi thật, sao lại vẽ hai đứa nó vào bức tranh này?”
“Vẽ nửa chừng thì đói bụng, đột nhiên thèm món gà nấu nồi gang ở nhà.”
“…”
21
Trong một buổi tiệc thương mại, tôi tay cầm ly rượu vang, trò chuyện cởi mở với các đối tác làm ăn.
Cô gái từng yếu đuối nhút nhát giờ đây đã được rèn giũa thành thép, không còn sợ hãi gì nữa.
Sau khi kết thúc, tôi len lén đi ra góc vắng.
Tống Triều – cũng tham gia buổi tiệc – bước tới.
Chúng tôi cùng nhau thở dài.
Dù không sợ hãi, nhưng tôi vẫn không thích kiểu xã giao đầy tính toán như thế này. Trùng hợp, anh cũng vậy.
Chúng tôi cụng ly.
“Mệt thật đấy.”
“Tôi cũng vậy.”
“Tôi muốn về quê quá.”
“Tôi cũng thế.”
Chúng tôi nhìn nhau, cười hiểu ý.
Hôm sau, cả hai thu xếp công việc, lập tức trở về làng.
Ba tôi âm thầm cầm dao chặt xương, mẹ tôi chuẩn bị nồi nước sôi và nhựa thông, anh cả cầm muôi sắt, chị hai xách bó củi, còn các bác các cô các chú mỗi người một món – chổi, xẻng, xoong nồi…
Ngay cả con Đại Hoàng bị xích cũng âm thầm giật đứt dây, trợn mắt nhìn Tống Triều.
“Thận trọng đấy.”
Tống Triều đi lòng vòng trong sân quan sát mấy con gà vịt ngỗng thả rông.
Giờ đây, đãi ngộ của anh không giống xưa nữa – hễ chỉ ai là con đó toi. Thậm chí chưa kịp chỉ, dao của mẹ tôi đã vung lên.
Con vịt – ọc!
Đúng lúc này là dịp cận Tết, nhà tôi lại chuẩn bị mổ lợn.
Vài thanh niên cùng tuổi Tống Triều trong làng đến giúp, nhìn anh từ đầu đến chân rồi lắc đầu tặc lưỡi.
“Không được đâu, trai thành phố không làm được mấy việc này đâu.”
Tống Triều không nói một lời.
Nhưng tôi biết anh không cam lòng.
Anh xắn tay áo, theo mọi người đi đè lợn.
Thở hồng hộc, đến lúc thấy ba tôi giết lợn thì mặt cắt không còn giọt máu, run lẩy bẩy.
Nhưng đến lúc có món thịt lợn nóng hổi bày lên bàn, anh ăn ngon lành hơn ai hết.
Ăn xong, chúng tôi lại lên ngọn đồi sau làng.
Từ đây, có thể nhìn thấy hoàng hôn rực rỡ vô cùng.
Đột nhiên, Tống Triều lấy ra một chiếc hộp nhỏ, bên trong là một chiếc nhẫn kim cương tinh xảo.
“Trước kia tôi nghĩ lấy ai cũng vậy, nhưng giờ tôi nhận ra không phải vậy. An An, ở bên em tôi thấy rất vui, tôi muốn cùng em đi hết quãng đời còn lại.”
Dù bất ngờ, nhưng tôi cũng không thấy quá ngạc nhiên.
Tôi nhận lấy nhẫn, rồi lôi ra chiếc nhẫn cỏ đuôi chó tôi tự bện.
“Thật ra tôi cũng nghĩ vậy, chỉ là bị anh nói trước rồi.”
Tống Triều nghiêm túc đeo chiếc nhẫn cỏ, rồi ôm tôi cười như đứa trẻ.
…
Trải qua nhiều chuyện như vậy, tôi mới hiểu: đời người không có bước đi nào là vô ích.
Mỗi bước chân, mỗi người tôi gặp, mỗi ngã rẽ từng chọn…
Tất cả đã tạo nên một tôi duy nhất.
Tôi biết ơn cuộc đời như thế này.
Biết ơn tất cả những người từng xuất hiện trong đời tôi.
Quãng đời còn lại, tôi sẽ vẫn sống vui vẻ như bây giờ.