Chương 10 - HÀN THANH TUYỆT
Năm nàng thay công chúa Hoa Dương hòa thân, Thẩm Tĩnh Ngâm rời đi, tới Nghĩa Hùng quan. Nàng ở trong trại địch, mềm mỏng chiều chuộng; hắn tử trận nơi sa trường. Nàng sinh con cho vương gia, nhưng lòng chưa bao giờ thuộc về hắn.
Mỗi lần gửi đồ về cho gia đình, nàng đều khâu tin tức tình báo liên quan đến Hách Lạp vào trong áo của tiểu vương tử. Vì vậy, Bình Triều mới có sự chuẩn bị từ trước, khiến trận chiến này của chúng ta trở nên gian nan vô cùng.
Kỳ thực, nàng chẳng còn gia đình. Đệ đệ Hàn Trầm Phong là người thân duy nhất của nàng.
Năm xưa, nàng thay công chúa hòa thân chỉ vì muốn đổi lấy ba năm hòa bình cho Bình Triều. Hoàng đế Bình Triều tự tin nói với nàng rằng, chỉ cần ba năm là đủ để huấn luyện tinh binh chống lại vó ngựa của tướng bĩ Hách Lạp. Nhưng khi người Hách Lạp rút lui, Bình Triều lại chìm trong cảnh ca múa tưng bừng, không lo tiến thủ.
Nàng phải tận mắt chứng kiến từng ải biên cương thất thủ, từng đợt dân chúng lầm than, giang sơn Bình Triều dần dần sụp đổ.
Cuộc đời nàng hoàn toàn trở nên vô nghĩa. Những gì có thể làm, nàng đã làm hết rồi. Nàng thật sự không còn cách nào khác.
Nhìn đứa con trai của mình – vị tiểu vương tử tên Nguyên Lãng, nàng biết rằng lớn lên nó cũng sẽ dẫn binh Hách Lạp giày xéo quê hương nàng. Nàng không thể chịu đựng được, chỉ còn cách ôm con nhảy xuống vực sâu.
Nàng dành tình cảm sâu nặng cho quê hương, nhưng lại tàn nhẫn đến cực điểm với chồng và con mình.
Nàng vừa trung, vừa hiếu, nhưng cũng vô tình và tuyệt tình đến tận cùng.
Mười lăm.
Hàn Trầm Phong chết sau đó hai năm. Vị anh hùng kháng Hách Lạp của Bình Triều không chết nơi sa trường mà bị gian thần Bình Triều hãm hại, chết trong ngục Thiên Lao. Hắn chết rồi, Bình Triều không còn tướng giỏi nào nữa.
Hai năm sau, đại quân Hách Lạp phá cửa Nghĩa Hùng quan, tiến đến chân thành Biện Kinh. Biện Kinh lại phái sứ thần cầu hòa, nguyện cống nạp một trăm vạn lượng bạc để đổi lấy hòa bình.
Mở miệng đã là một trăm vạn lượng, đúng là thời thế đã khác xưa. Nhưng vương gia của hôm nay cũng không phải vương gia của ngày trước nữa. Hắn vẫn yêu bạc, nhưng càng yêu giang sơn giàu có, vàng bạc châu báu chất đầy hơn.
Hắn chém đầu sứ thần, tiến vào Biện Kinh. Hai trăm người thuộc hoàng tộc họ Triệu bị bắt, Bình Triều cũng diệt vong.
Công chúa Hoa Dương được đưa đến trước mặt vương gia.Lần đầu tiên gặp nàng, ta thực sự thất vọng. Dung mạo bình thường, tính cách nhút nhát, yếu đuối sợ hãi. Vương gia hỏi nàng vài câu, nàng cũng chỉ biết khóc.
Ta nghĩ, Bình Triều thật may mắn. Nếu năm xưa họ đưa đến một người như thế, vương gia sẽ chẳng bị ảnh hưởng nhiều, rồi sự diệt vong của Bình Triều chắc chắn sẽ đến sớm hơn thôi.
Vương gia hiếm khi có được kiên nhẫn, bèn an ủi công chúa Hoa Dương: “Triệu Hoàn, đừng khóc.”
Hai chữ “Triệu Hoàn” từ miệng hắn thốt ra, quen thuộc nhưng lại pha chút dịu dàng. Đã rất lâu rồi hắn không gọi đến cái tên này, nhưng nỗi lưu luyến ấy, chỉ có hắn mới hiểu.
Một lần nọ, ta nghe hắn khẽ gọi trong mơ: “Triệu Hoàn!”
Cái tên Hàn Thanh Tuyệt chưa từng được nhắc đến. Trong lòng hắn, nàng chính là Triệu Hoàn. Hoặc có lẽ, đối với hắn, nàng là ai cũng không quan trọng.
Trước khi nàng chết, hắn chưa từng thực sự để tâm đến nàng.Tên tuổi nàng là gì, xuất thân từ đâu, hoài bão ra sao, sự kiên định như thế nào, hay nỗi thất vọng, tuyệt vọng của nàng – tất cả đều không lọt vào tâm trí hắn.
Chỉ đến khi nàng chết, mang theo đứa con của hắn nhảy xuống vực, hắn mới thực sự ghi khắc người phụ nữ này vào tận đáy lòng.
Mười sáu.
Ta hỏi Hoa Dương công chúa Triệu Hoàn: "Hàn Thanh Tuyệt thực sự chỉ là một cung nữ sao?"
Triệu Hoàn đáp: "Thanh Tuyệt xuất thân từ Hàn gia ở Lộ Châu."
Ta kinh hãi. Hàn gia ở Lộ Châu? Hàn gia ở Lộ Châu!
Người Hách Lạp ngày nay, đặc biệt là thế hệ trẻ, không mấy ai còn nhớ đến Hàn gia ở Lộ Châu. Nhưng nhiều năm về trước, Hàn gia ở Lộ Châu là cơn ác mộng của binh sĩ Hách Lạp. Gia tộc này từng dựng nên một bức tường đồng vách sắt, suốt mười lăm năm chặn đứng bước tiến của người Hách Lạp tại biên ải. Đó là những câu chuyện ta đã nghe từ các bậc trưởng bối khi còn nhỏ.
Mãi đến khi Nguyên Tu trở thành vua của Hách Lạp, hắn mới dần phá vỡ thần thoại bất bại của Hàn gia. Khi vị tướng cuối cùng của Hàn gia gục ngã dưới đao kiếm của Hách Lạp, gia tộc lừng lẫy ấy cũng hoàn toàn biến mất, những chiến công hiển hách bị chôn vùi trong cát bụi lịch sử.
Năm đó, đứa cháu gái mười ba tuổi duy nhất còn sống sót của Hàn gia được đưa vào cung, trở thành cung nữ bên cạnh Hoa Dương công chúa.
Năm năm sau, nàng thay công chúa hòa thân. Vị hôn phu thanh mai trúc mã của nàng là Thẩm Tĩnh Ngâm mang theo lòng phẫn uất rời khỏi Biện Kinh, tiến đến trấn giữ Nghĩa Hùng Quan. Có người cảm thán về số phận bi thương của đôi trai tài gái sắc này, sáng tác một bài từ lan truyền khắp Biện Kinh.
Mấy câu trong bức thư đầu tiên Hàn Thanh Tuyệt gửi về nhà, chính là phần đầu của bài từ đó. Vài câu nàng để lại trong di thư, chính là phần cuối của bài từ —
“Bích tiển phong chi điểm hàn anh, sơ sơ ngọc thanh băng khiết.
Mộng ức cựu gia, xuân dữ tân ân, tằng ánh thọ dương trang ngạch.
Lục quần thanh duệ nam lân bạn, ứng quái ngã, tinh thần đô biệt.
Hận suy vãn, xuân phong ý tứ, đốn thành tu khiếp.
Do niệm hoành tà tính các. Não hoà Tĩnh Ngâm hồn, tự lai Thanh Tuyệt.
Tà bàng kình tùng, thâu ỷ tu hoàng, tổng thị tuế hàn tướng thức.
Lục âm kết tử đường thì ý, đáo như kim phương tâm tiêu hiết.
Tiểu kiều dạ, thanh sầu quyện bồi đạm nguyệt.”
Tạm edit:
"Rêu xanh phong cành, hoa điểm lạnh, Trong ngần băng tuyết vẻ thanh ta.Mộng xưa ngôi cũ xuân vương ánh, Từng dõi thọ dương, phấn thấm mà.Xanh váy thướt tha bên lối nhỏ, Trách lòng, tinh ý đã phôi pha.Thương tuổi xế chiều, ý xuân nhạt, Bóng chiều buông lỡ, khuất ngàn xa.
Vẫn nhớ dáng nghiêng, lòng thấu tỏ, Hờn ai, hồn lặng, tuyệt từ xa.Bên thông, bóng trúc thân quen mãi, Rét lạnh vương mà vẫn thiết tha.Lá xanh kết trái khi xưa ấy, Giờ ngóng, tim khô, ý phai nhòa.Cầu nhỏ đêm khuya sầu vướng nguyệt, Ánh trăng soi tỏ, buốt lòng ta."
Nàng dùng bài từ này để nhắc nhở đệ đệ và chính bản thân mình. Đừng quên mối thù nhà nợ nước, đừng mềm lòng trước Nguyên Tu. Hãy trả thù cho Thẩm Tĩnh Ngâm, báo hận cho Hàn Thanh Tuyệt.
"Não Hòa Tĩnh Ngâm hồn, tự lai Thanh Tuyệt."
Ta ghi nhớ câu này. Thẩm Tĩnh Ngâm và Hàn Thanh Tuyệt, cuối cùng đã viết nên một khúc tuyệt ca bi thương.
Người con gái ấy, cũng như chính cái tên của nàng, vừa mỹ lệ đến tận cùng, lại vừa lạnh lẽo thê lương đến cùng cực.
Mười bảy.
Trong toàn bộ câu chuyện này, sai lầm lớn nhất của người Hách Lạp chúng ta, chính là không ngờ rằng Hàn gia ở Lộ Châu vẫn còn hậu nhân sống sót. Chúng ta đã quá chủ quan, đã đánh giá quá thấp Hàn Thanh Tuyệt.
Ngoài việc mạo danh công chúa, kỳ thực nàng chưa bao giờ nói dối chúng ta. Nàng lặng lẽ phơi bày nhiều chi tiết thật về bản thân mình, nhưng chúng ta chẳng hề nhận ra.
Nếu năm đó Vương gia cẩn thận hơn, điều tra thân thế của nàng, chắc chắn ngài sẽ giết nàng ngay lập tức, tuyệt đối không để nàng sinh con dưỡng cái cho mình, lại càng không dỡ bỏ phòng bị, phơi bày hết điểm yếu mềm của mình ngay trước mắt nàng.
Bởi vì bất kể người Hách Lạp chinh phục bao nhiêu nữ nhân của Bình Triều, cũng không bao giờ chinh phục nổi một nữ nhân của Hàn gia ở Lộ Châu.
Ông nội, cha mẹ, huynh trưởng, tỷ muội của nàng đều đã hy sinh trong những cuộc chiến chống lại Hách Lạp. Trong huyết mạch nàng luôn tuôn chảy mối thù hằn vĩnh viễn không thể rửa sạch.
Lần này, Vương gia không mang bạc hay công chúa trở lại thảo nguyên. Ngài ở lại Biện Kinh, lập quốc xưng đế.
Hoa Dương công chúa Triệu Hoàn mới thật sự là cây tầm gửi mềm yếu. Nàng ta khóc lóc nương tựa tân chủ tử, nhanh chóng được sủng ái, phong làm phi, tiếp tục thừa hưởng vinh hoa phú quý.
Còn ta, ta nhận được một phong hào, như một phần thưởng cho sự trung thành trong nhiều năm qua.
Ngoài Triệu Hoàn và ta, hậu cung gần như không có nữ nhân nào khác. Vương gia lên ngôi hoàng đế nhưng vẫn keo kiệt như trước, cảm thấy nuôi hậu cung quá tốn kém. Ngôi vị hoàng hậu của ngài vẫn luôn để trống.
Một năm nọ, Hoa Dương công chúa sinh được một bé trai, hoàng thượng ban tên là Nguyên Lãng. Ngày ấy, ngài bế đứa trẻ, nở nụ cười mà đã lâu ta đã không còn trông thấy, sau đó nói với Triệu Hoàn:
"Triệu Hoàn, nàng xem, tiểu vương tử của chúng ta, đã trở lại rồi."
(Hoàn chính văn)