Chương 2 - Chiếc Vali Bí Ẩn
5
Nói đến đây, cổ họng tôi nghẹn lại, nước mắt đã tràn xuống, rơi lên mu bàn tay đang siết chặt.
Vương Khải im lặng, chỉ lặng lẽ rút vài tờ giấy từ hộp khăn giấy, đưa cho tôi.
Tôi nhận lấy, lau vội trên mặt, nhưng nước mắt cứ trào ra mãi.
“Rất tiếc khi nghe câu chuyện của hai người.”
Giọng anh ta trầm, mang theo chút đồng cảm nghề nghiệp.
“Nhưng xin lỗi anh Lưu, cho phép tôi hỏi thẳng.”
“Anh thành đạt, tuổi còn trẻ đã có chuỗi kinh doanh riêng.”
“Lẽ ra xung quanh anh không thiếu những người ưu tú.”
“Còn cô Lê Hạ, theo lời anh kể và theo tôi được biết, cô ấy bình thường, xuất thân đơn giản…”
“Vậy điều gì ở cô ấy khiến anh yêu cô ấy? Chỉ vì… cô ấy hiền lành sao?”
Tôi ngẩng đầu, qua làn nước mắt mờ nhòe nhìn anh ta.
Trong lòng tôi dâng lên sự phẫn nộ và thôi thúc muốn bảo vệ cô ấy.
“Lòng tốt chưa đủ sao?” – tôi nói, giọng run run.
“Bác sĩ Vương, anh chưa từng thấy ánh mắt cô ấy khi nhìn bọn trẻ, chưa nghe giọng cô ấy nói với con mèo hoang kia…”
“Cô ấy trong sáng, thuần khiết.”
“Trong thế giới nơi mọi thứ đều tính toán giá trị và hiệu quả này, sự thuần khiết ấy là thứ ánh sáng chiếu vào lòng tôi.”
“Tôi không chọn người như chọn hàng hóa, tôi chỉ muốn tìm một người khiến tâm hồn mình được bình yên.”
“Là cô ấy, chỉ có cô ấy.”
Tôi hít sâu, cố kìm lại cảm xúc.
“Tôi lăn lộn ngoài xã hội, thấy đủ kiểu người khôn khéo, toan tính.”
“Nhưng Lê Hạ thì khác. Cái tốt của cô ấy là thứ âm thầm, phải chậm rãi mới cảm nhận được. Và tôi — may mắn là người đã cảm nhận được.”
“Vậy anh quý trọng sự đơn thuần của cô ấy.” – Vương Khải tổng kết.
“Đúng vậy.”
Tôi nói, rồi lại khẽ bổ sung:
“Nhưng đôi khi, chính sự ngây thơ ấy… cũng khiến người ta lo lắng.”
Vương Khải gật đầu trầm ngâm, không tiếp tục truy hỏi.
Anh đổi chủ đề:
“Nếu dùng ba từ khóa để miêu tả bản thân, anh sẽ chọn gì?”
Câu hỏi đột ngột, nhưng tôi đáp ngay:
“Quyết đoán, mạo hiểm, có năng lực hành động.”
“Cụ thể là sao? Những phẩm chất đó thể hiện thế nào trong đời anh?”
6
Tôi lau khô nước mắt, ký ức quay về những năm tháng xa xưa.
Tôi bỏ học giữa chừng khi chưa tốt nghiệp đại học.
Lúc đó gia đình phản đối, bạn bè không hiểu, nhưng tôi nhận ra một khoảng trống trên thị trường ẩm thực, cảm thấy cơ hội vụt qua là sẽ mất mãi, nên tôi dứt khoát bỏ học, dốc toàn bộ tiền tiết kiệm, còn vay thêm một khoản không nhỏ.
Tôi bắt đầu kể về chặng đường khởi nghiệp gian nan: thuê một quán nhỏ trong con hẻm hẻo lánh, tự mình nghiên cứu món ăn, chạy tìm nhà cung cấp, lo quảng cáo.
Dưới áp lực khổng lồ, tôi từng bước mở rộng, biến quán nhỏ đó thành chuỗi nhà hàng như hôm nay.
“Nhiều khi, cơ hội ở ngay đó. Chỉ cần do dự, là mất mãi mãi.”
“Tôi tin rằng, đã nhìn thấy thì phải làm, gặp khó thì nghĩ cách vượt qua tuyệt đối không quay đầu.”
Tôi ngừng lại, ánh mắt chùng xuống.
“Hai năm nay đi tìm Lê Hạ, tôi cũng vậy.”
“Chỉ cần có một manh mối, dù xa hay nguy hiểm, tôi cũng lập tức lên đường.”
“Chính sự quyết đoán và hành động đó giúp tôi đi hết mọi nơi có thể.”
“Ý anh là… chuyến đi đến tỉnh Phái Nam phải không?”
Vương Khải nắm bắt thời điểm, cầm lại bút.
Tôi gật đầu. Ký ức xen lẫn hy vọng và tuyệt vọng lại ùa về.
7
Không lâu sau khi Lê Hạ mất tích, tôi gần như vận dụng tất cả mối quan hệ và kênh thông tin.
Trên các nền tảng mạng xã hội, tôi đăng thông báo treo thưởng lớn để tìm người.
Nhưng những gì nhận được phần lớn đều là lừa đảo.
Cho đến khoảng tháng thứ ba sau khi cô ấy mất tích, tôi nhận được một cuộc gọi từ số lạ.
Người đó nói đã thấy Lê Hạ ở một thị trấn biên giới thuộc tỉnh Phái Nam, bị vài phụ nữ địa phương canh giữ, thần sắc hoảng loạn.
Hắn nói không rõ ràng, nhưng có nhắc đến vết sẹo trên mu bàn tay cô ấy.
Tôi không hề do dự.
Lập tức lái xe suốt đêm đến thị trấn biên giới tên là Mại Khả.
Trên đường đi, tim tôi đập thình thịch, trong đầu không ngừng tưởng tượng cảnh ôm chầm lấy cô ấy.
Thị trấn Mại Khả còn lạc hậu và nghèo nàn hơn tôi tưởng.
Đường đất bụi mù, nhà cửa thấp lè tè, người ta nói thứ phương ngữ tôi nghe không hiểu.
Tôi cầm ảnh của Lê Hạ, đi từng nhà hỏi, cho từng người xem.
Phần lớn chỉ lắc đầu thờ ơ.
Đến chiều hôm sau, tôi mua nước ở một sạp ven đường.
Ông chủ là một lão già gầy gò, răng vàng khè.
Ông ta nhìn tấm ảnh rất lâu, rồi nói tiếng phổ thông ngọng nghịu:
“Hình như… từng thấy ở Thạch Đầu Trại.”
Thạch Đầu Trại là một ngôi làng sâu hơn trong núi.
Tôi cố kìm nhịp tim đang dồn dập, hỏi kỹ đường đi.
8
Theo lời chỉ dẫn của lão già, tôi tìm đến được Thạch Đầu Trại – ngôi làng ẩn sâu giữa núi non trùng điệp.
Làng rất nhỏ, nhà cửa đều xây bằng đá thô ráp, ra vào chỉ có một con đường đất gập ghềnh.
Tôi không dám mạo hiểm bước vào ngay mà đứng ngoài quan sát, cố tìm chút manh mối.
Sau đó, tôi gặp một người đàn ông trung niên đang chăn bò trên sườn dốc đầu làng.
Tôi lại dùng chiêu cũ, lấy ảnh ra, cố gắng dùng giọng thân thiện để hỏi.
Khi thấy bức ảnh, sắc mặt người đàn ông thoáng thay đổi.
Hắn ấp úng, nói không rõ ràng.
Tôi lại lấy tiền ra, lần này nhiều hơn cả lần đưa cho lão chủ quán nước.
Tiền làm hắn bớt cảnh giác, hắn ghé sát lại, người nồng nặc mùi mồ hôi, nói bí hiểm:
“Trong làng chúng tôi có nhà mới mua một cô gái, nhốt trong nhà kho, có phải là người anh tìm thì không biết.”
Hắn đồng ý dẫn tôi lén vào xem thử.
Bị tia hy vọng duy nhất làm mờ lý trí, tôi đi theo hắn vào con hẻm hẹp sâu trong làng.
Nhưng vừa rẽ qua một góc, sau đầu tôi bỗng đau nhói, mắt tối sầm, rồi không biết gì nữa.
Khi tỉnh lại, tôi phát hiện mình đang ở một nơi hôi hám, nồng mùi ẩm mốc và mồ hôi.
Dưới thân là rơm ướt, tay chân bị xích bằng cùm sắt nặng nề.
Bên cạnh là vài người đàn ông ánh mắt đờ đẫn, quần áo rách rưới, đang máy móc dùng xẻng khuấy trộn gì đó.
Đó là một lò gạch lậu.
Lúc ấy tôi mới hiểu: gã chăn bò và lão già chỉ đường kia chắc cùng một bọn.
Chúng lợi dụng tâm lý nóng ruột đi tìm người thân của tôi để lừa bán tôi vào lò gạch này làm lao dịch.
Mười lăm ngày tiếp theo là quãng thời gian đen tối nhất đời tôi.
Mỗi ngày, dưới roi da và tiếng chửi rủa của bọn cai, tôi phải làm việc quá sức, ăn cơm thiu hôi như đồ cho heo, ngủ trên ổ rơm đầy côn trùng bò lúc nhúc.
Những người bị giam cùng tôi đều là nạn nhân bị bắt cóc hoặc lừa bán.
Tuyệt vọng như bùn lầy, từng chút một nuốt chửng tôi.
Nhưng sự quyết đoán và năng lực hành động đã cứu tôi.
Tôi không bỏ cuộc.
Tôi ép mình ăn, tích trữ sức lực, ngoài mặt giả vờ ngoan ngoãn, nhưng ngầm quan sát kỹ quy luật hoạt động của bọn cai.
Đặc biệt là tên đốc công lùn béo, bên hông hắn luôn đeo một chiếc điện thoại.
Đó là tia hy vọng duy nhất của tôi.
Cơ hội đến vào chiều ngày thứ mười sáu.
Một cơn mưa lớn bất ngờ khiến công trường hỗn loạn, bọn cai chạy vào lán trú mưa, ngồi uống rượu.
Tên đốc công uống say, để điện thoại lên cái thùng gỗ mục ở cửa lán rồi vào trong chơi oẳn tù tì.
Dù bị xích hạn chế, tôi phát hiện đoạn xích nối từ chân mình đến cọc sắt cố định đã bị mòn, có một mắt bị nứt.
Lợi dụng tiếng sấm, tôi lấy xẻng đập mạnh vào vết nứt ấy.
Mồ hôi, nước mưa, và máu từ bàn tay trầy xước hòa lẫn.
Từng giây từng phút trôi qua đến lúc bọn cai say khướt, ồn ào nhất.
“Cạch!” — mắt xích gãy.
Tôi bò sát đất, men theo bóng những viên gạch, lặng lẽ trườn đến gần lán, lấy được chiếc điện thoại cũ.
Không dám dừng lại, tôi trốn ra sau chiếc quạt gió sau lò gạch, che ánh sáng bằng thân mình, run rẩy bấm số báo cảnh sát.
Tôi nói nhỏ nhất có thể, cố gắng nêu rõ tên mình, vị trí đại khái, và những từ khóa “lò gạch lậu”, “buôn người”.
Vừa nói xong, tôi nghe trong lán có tiếng quát:
“Điện thoại tao đâu?!”
Tôi lập tức ngắt máy, xóa lịch sử cuộc gọi.
Rồi ném mạnh điện thoại về phía đống gạch vụn phía xa.
Cùng lúc đó, tên đốc công chửi bới xông ra…
Sau đó tôi không nhớ rõ nữa.
Chỉ nhớ tiếng còi cảnh sát vang lên trong đêm, bọn cai hoảng loạn bỏ chạy.
Ánh đèn pin chói lòa của cảnh sát chiếu thẳng vào người tôi.
Họ phá được lò gạch, lần ra cả đường dây buôn người của ngôi làng đó.
Nhưng trong số những phụ nữ được giải cứu, không có Lê Hạ.
Cảnh sát điều tra kỹ mọi manh mối tôi cung cấp, cuối cùng xác nhận vụ này không liên quan.
Số điện thoại ban đầu báo tin cũng không bao giờ liên lạc được nữa.
Hy vọng một lần nữa bùng lên, rồi lại bị dập tắt hoàn toàn.